Đơn khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất

Đơn khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất
Tranh chấp quyền sử dụng đất là loại tranh chấp phát sinh giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai nhằm xác định ai là người có quyền sử dụng đất hợp pháp. Về nguyên tắc, tranh chấp quyền sử dụng đất có thể khởi kiện tại Tòa án thông qua đơn khởi kiện.
Đơn khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất muốn được Tòa án thụ lý phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện phức tạp về nội dung, hình thức cũng như thủ tục nộp đơn. Nếu không đáp ứng được các điều kiện này thì quá trình nộp đơn có thể trở nên rất phức tạp và thậm chí là không thể khởi kiện được do bị Tòa án trả đơn.

Đơn khởi kiện là một dạng văn bản có tính pháp lý, có tính chất định hướng cho quá trình giải quyết vụ án, do đó, nó rất quan trọng. Việc tham vấn ý kiến của Luật sư, các chuyên gia pháp lý cho việc khởi kiện đối với từng trường hợp cụ thể là việc làm hết sức cần thiết.

Chúng tôi xin giới thiệu mẫu đơn cho quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất để tham khảo như sau:

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
 
ĐƠN KHỞI KIỆN
(V/v: Tranh chấp tài sản chung sau khi ly hôn)
 
Kính gửi: TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TA, TỈNH B
 
Người khởi kiện:
Họ và tên                : TRẦN VĂN A, sinh năm: 194
CMND số                :  022 461 613  do Công an TP.H cấp ngày: 18/07/2007     
Thường trú              : …………………………., huyện HM, TP.H
Địa chỉ liên lạc      : …………………………., TP.H
 
Người bị kiện:
Họ và tên                : TÔN NỮ THỊ B, sinh năm: 196
CMND số                :  022 461 613  do Công an TP.H cấp ngày: 18/07/2007    
Thường trú              : ………………., huyện HM, TP.H
Địa chỉ liên lạc      : ………………., huyện HM, TP.H
 
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1.      CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN PH
Địa chỉ: 84A ấp Đồng An, xã Bình Hòa, huyện TA, tỉnh B
 
Yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau đây đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Tôi và bà Tôn Nữ Thị B chung sống từ năm 1982, có hai con chung là Trần Kim …..(sinh năm 1983) và Trần Kim ….. (sinh năm 1984). Năm 1989, Tôi và bà B đăng ký kết hôn.
Năm 2004, Tôi và bà B ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 108/QĐ.TTLH ngày 09/8/2004 của Tòa án nhân dân huyện HM. Quyết định công nhận thuận tình ly hôn nêu trên của TAND huyện HM chỉ giải quyết quan hệ hôn nhân giữa Tôi và bà B, về tài sản chung do tôi và bà B không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.
Nay tôi và bà B không thể tự thỏa thuận phân chia tài sản chung được, khối tài sản chung mà tôi và bà B không thể tự thoả thuận phân chia được gồm:
 
1. Khu đất 1: Có diện tích 1.002m2 thuộc thửa số 711 (số cũ là 731 tách từ thửa 237), tờ bản đồ số F2, tọa lạc tại ấp Đông Ba (nay là Ấp Đồng An), xã Bình Hòa, huyện TA, tỉnh B có bất động sản trên đất là nhà số 84A ấp Đồng An, xã Bình Hòa, huyện TA, tỉnh B có nguồn gốc do tôi và bà B nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Lê Thành Sự, sinh năm 1945, địa chỉ tại 84A Ấp Đông Ba (nay là Ấp Đồng An), huyện TA, tỉnh B năm 1999 với giá là 425.000.000 đồng (bốn trăm hai mươi lăm triệu đồng) theo giấy nhận tiền đặt cọc ngày 23/01/1999 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/7/2001 có chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
            Khi tôi và bà B nhận chuyển nhượng quyền sử dụng khu đất nêu trên, thì trên khu đất đã có căn nhà số 84A (tôi và bà B mua đất bao gồm luôn cả phần nhà). Tuy nhiên, sau đó tôi cho lại phần xác nhà cho ông Lê Thành Sự, và cất một căn nhà chỉ bằng mây tre lá để làm vựa mua bán heo tại đây. Năm 2001, tôi và bà B cho công ty TNHH Phước Khanh thuê toàn bộ khu đất để làm nhà xưởng cán tole, công ty Phước Khanh cam kết tự bỏ tiền ra xây dựng nhà xưởng để sử dụng, sau khi hết hạn hợp đồng nếu không thuê tiếp thì sẽ không tính các chi phí đã bỏ ra xây dựng nhà xưởng (hợp đồng hiện nay do bà B và công ty Phước Khanh đang giữ), giá thuê mỗi tháng là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng)
Ngày 18/10/2001 UBND huyện TA đã cấp giấy chứng nhận số 01702 QSDĐ/BH cho bà Tôn Nữ Thị B được quyền sử dụng 1002 m2 đất thuộc thửa số 711 tờ bản đồ số F2 tọa lạc tại tại ấp Đồng An, xã Bình Hòa,  huyện TA, tỉnh B.
Từ sau khi tôi và bà B ly hôn (ngày 09/8/2004) đến nay, bà B chiếm giữ khu đất này và thu hoa lợi, lợi tức mà không có thỏa thuận gì với tôi. (Giấy tờ bản chính liên quan đến khu đất do bà B đang giữ).
 
2. Khu đất 2: Có diện tích 409m2 tọa lạc tại khu 8, xã Đông Hòa, huyện DA, tỉnh B có nguồn gốc do tôi và bà B mua của bà Lê Thị Vũ, sinh năm 1959, địa chỉ tại 1/4A Thanh Hóa, Hố Nai 3, Thống Nhất, Đồng Nai ngày 28/12/2000 với giá 09 lượng vàng (giá hiện nay khoảng 200.000.000 đồng). Hiện nay bà Tôn Nữ Thị B đã được UBND huyện DA, tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với khu đất nêu trên (giấy tờ bản chính bà B đang giữ). Từ sau khi ly hôn, bà B đã chiếm giữ khu đất này và tự ý cho người khác thuê để bán xe cơ giới (người thuê đất và giá thuê tôi không biết rõ).
Tôi đã nhiều lần hòa giải với bà B, và yêu cầu bà B phải chia đôi số tài sản trên cho tôi, nhưng bà B không đồng ý, bà B muốn chiếm giữ cho riêng mình.
Vì những lý do như đã trình bày trên đây, nay tôi làm đơn này khởi kiện bà Tôn Nữ Thị B, yêu cầu Toà án phân chia tài sản chung của tôi và bà Tôn Nữ Thị B, cụ thể như sau:
 Khu đất 1: Có diện tích 1.002m2 thuộc thửa số 711 (số cũ là 731 tách từ thửa 237), tờ bản đồ số F2, tọa lạc tại ấp Đông Ba (nay là Ấp Đồng An), xã Bình Hòa, huyện TA, tỉnh B có bất động sản trên đất là nhà số 84A ấp Đồng An, xã Bình Hòa, huyện TA, tỉnh B: Tôi yêu cầu chia cho tôi 1/2 diện tích khu đất nêu trên, phần tôi được nhận có diện tích là 501 m2. Phần đất mà tôi được phân chia phải có diện tích mặt tiền bằng 1/2 diện tích mặt tiền toàn bộ khu đất nêu trên, có giá trị bằng 1/2 giá trị toàn bộ khu đất nêu trên. Toàn bộ khu đất trên có giá trị khoảng 425.000.000 đồng (Bốn trăm hai mươi lăm triệu đồng), phần tôi được chia có giá trị khoảng 212.500.000 đồng (Hai trăm mười hai triệu năm trăm nghìn đồng).
Khu đất 2: Có diện tích 409m2 tọa lạc tại khu 8, xã Đông Hòa, huyện DA, tỉnh B và hoa lợi, lợi tức từ việc cho thuê đất nêu trên: Tôi yêu cầu chia cho tôi 1/2 diện tích khu đất nêu trên, phần tôi được nhận có diện tích là 204,5 m2. Phần đất mà tôi được phân chia phải có diện tích mặt tiền bằng 1/2 diện tích mặt tiền toàn bộ khu đất nêu trên, có giá trị bằng 1/2 giá trị toàn bộ khu đất nêu trên. Toàn bộ khu đất trên có giá trị khoảng 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), phần tôi được chia có giá trị khoảng 100.000.000 đồng (Một  trăm triệu đồng).
Tổng cộng hai phần đất tôi được chia có giá trị khoảng 312.500.000 đồng (Ba trăm mười hai triệu năm trăm nghìn đồng).
Các tài sản khác trong khối tài sản chung của tôi và bà B, tôi không yêu cầu xem xét trong vụ án này, tôi sẽ khởi kiện trong một vụ án khác.
Tôi kính mong Quý Toà quan tâm xem xét và thụ lý giải quyết sớm.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
 
Tp HCM, ngày ……tháng  ……. năm 20
                                                                                                   Người làm đơn
 
 
 
  
          TRẦN VĂN A
Các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện:
1.      CMND, sổ hộ khẩu của ông Trần VĂN A (bản sao y);
2.      Quyết định công nhận thuận tình ly hôn của TAND huyện HM (bản sao y);
3.      02 Biên bản hòa giải;
4.      Giấy nhận tiền cọc ngày 23/01/1999;
5.       Đơn xin xác nhận nhà đất;
6.       Giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên ông Lê Thành Sự, Giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên bà Lê Thị Vũ;
7.       02 Giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên bà Tôn Nữ Thị B;
8.       Hồ sơ kỹ thuật thửa đất của bà Tôn Nữ Thị B;
9.       Biên bản v/v đo đạc, cắm mốc ranh giới, xác minh nguồn gốc đất xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ;
10.  02 Tờ khai lệ phí trước bạ;
11.   02 Tờ khai nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất;
12.  Biên bản v/v đo đạc, khảo sát ranh giới, xác minh nguồn gốc đơn xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ;
13.   Giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước bằng tiền mặt;
14.   Đơn kê khai và xin xác nhận về diện tích đất hiện có tại địa phương;
15.  Biên bản kiểm tra;
16.   02 Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ;

Mẫu đơn chỉ mang tính chất tham khảo, Quý khách hàng cần tham khảo Luật sư, chuyên gia pháp lý khi nộp đơn khởi kiện. Thông tin tư vấn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Hãy liên hệ với chúng tôi theo tổng đài tư vấn 1900 6279 để được luật sư tư vấn trực tiếp, hoặc hẹn luật sư gọi 097 88 456 17.