Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất - bản án

Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất - bản án
Nội dung vụ án: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Ngh trình bày: Bố ông là cụ Nguyễn Văn B mất năm 1967, có vợ là cụ Phan Thị Th mất năm 1964. Hai cụ có 5 người con gồm: ông L, ông C , ông P, ông N và ông Ngh. Hai cụ có ngôi nhà cổ 5 gian trên diện tích đất 1.770m2 tại xóm Đ, thôn 2, xã T, huyện TL, tỉnh H. Khi còn sống cụ B, cụ Th đã chia tài sản cho 5 người con mỗi người một phần đất có ranh giới rõ ràng, riêng ông Ngh và ông N được bố mẹ chia cho diện tích đất 355m2 chưa có ranh giới cụ thể.

Ngày 31/12/1991, ông L là anh trưởng cùng anh em con cháu đứng ra lập văn bản phân chia quyền thừa kế, quyền sử dụng đất thổ cư cho ông Ngh và ông N, cụ thể ông Ngh được 120,8m2 đất còn lại phía trong là của ông N và để lại một lối đi chung có chiều dài 16m và chiều rộng 1,8m.
Do chưa có điều kiện xây dựng ở, năm 1967 anh D - con ông N có mượn ông Ngh phần đất trên để làm nơi chăn nuôi. Năm 1994, anh D làm giấy trả lại diện tích đất trên cho ông Ngh. Ông Ngh đã làm nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước từ trước đến nay. Nay ông Ngh có ý định về đất này xây dựng thì anh Nguyễn Kim Kh - con ông N, gây khó khăn và cố tình chiếm đoạt đất của ông. Ông Ngh khởi kiện đề nghị Toà án buộc anh Kh phải trả lại ông diện tích đất 120,8m2 ở xóm Đ, thôn 2, xã T, huyện TL, tỉnh H.
Bị đơn anh Nguyễn Kim Kh trình bày:
Bố anh là ông Nguyễn Văn N mất năm 1988, mẹ anh là bà Nguyễn Thị Th mất năm 2003. Bố mẹ anh sinh 5 người con gồm: anh Kh, chị G, chị Q, anh D và anh H. Anh D mất năm 2005 có vợ là Chu Thị T và 5 con, đó là chị O, chị P, chị M, anh S, anh Đ.
Cụ B, cụ Th có nhà đất như ông Ngh trình bày là đúng. Khi các cụ còn sống đã nói chia đất cho các con, cụ thể. Ông L được 720m2, ông C 350m2, ông Ph khoảng 350m2, ông N được 355m2, còn ông Ngh được bố mẹ cho tiền mua nhà 72, phố NHH, tỉnh H.
Bố mẹ anh Kh ở thửa đất này từ năm 1945, gia đình anh đã nhận đất ở cũng như khai báo phần đất 120,8m2 và xây chuồng lợn, vệ sinh và trồng 2 cây hồng xiêm, đổ đất tôn tạo từ năm 1960. Quá trình ở từ đó đến nay vẫn nguyên hiện trạng.
Văn bản chia đất năm 1991, anh không đồng ý vì mẹ anh và 4 anh chị em anh không biết. Nay ông Ngh đòi lại diện tích đất trên, nếu xác định đất của ông Ngh thì anh cũng đồng ý nhưng ông Ngh phải thanh toán công sức duy trì tôn tạo và tài sản nằm trên đất trong suốt 50 năm qua cho vợ chồng anh với số tiền là 350.000.000 đồng.
Chị Hoàng Thị A (vợ anh Kh) trình bày:
Chị nhất trí lời khai của anh Kh và chị có đề nghị nếu Toà xử trả ông Ngh đất có tranh chấp thì Toà xem xét công sức duy trì tôn tạo của vợ chồng chị từ năm 1953 cho đến nay. Anh chị có xây dựng thêm 01 nhà vệ sinh năm 2006.
Chị Q, chị G, anh H trình bày:
Nguồn gốc thửa đất có tranh chấp là của ông Nguyễn Văn Ngh. Nay có việc tranh chấp giữa anh Kh và ông Ngh. Các anh, chị đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bà T, chị O, chị P, chị M, anh S, anh Đ trình bày:
Nguồn gốc thửa đất có tranh chấp là của ông Nguyễn Văn Ngh. Trước đây, gia đình bà T và ông D có mượn đất của ông Ngh để xây dựng chuồng lợn. Năm 1994, ông D làm giấy trả lại ông Ngh đất. Khi mượn vợ chồng bà là người xây chuồng lợn. Khi chuyển đi không có ý kiến gì, ông D chết năm 2005. Nay có việc kiện giữa ông Ngh và anh Kh đề nghị Tòa căn cứ pháp luật giải quyết; bà và các anh chị không có ý kiến gì và xin giải quyết vắng mặt. Đối với chuồng lợn cũ không yêu cầu ông Ngh phải thanh toán giá trị.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:
“Văn bản phân chia quyền thừa kế sử dụng đất thổ cư” ngày 31/12/1991 có nội dung đúng như ông Ngh trình bày. Tại thời điểm này, cán bộ địa chính Uỷ ban nhân dân xã T về cắm mốc giới đất giữa đất của ông N và đất của ông Ngh, anh Kh biết nhưng không có ý kiến gì. Tại Trích lục bản đồ năm 1986 của xã T đã thể hiện thửa số 79 diện tích 355m2 đất thổ cư đứng tên chủ sử dụng là ông Nguyễn Văn N và ông Nguyễn Văn Ngh.
 “Giấy bàn giao” ngày 20/3/1994 do anh D viết và ký có nội dung trả ông Ngh diện tích đất đã mượn. Biên bản xác minh ngày 25/7/2007 có nội dung UBND xã T xác định diện tích đất tranh chấp có diện tích 120,8m2 là của ông Ngh. Anh Kh không xuất trình được chứng cứ gì để chứng minh diện tích đất đang tranh chấp là của ông N.
Bản di chúc ngày 15/6/2001của bà Nguyễn Thị Th (mẹ anh Kh) có nội dung toàn bộ diện tích đất và nhà (kể cả diện tích đất đang tranh chấp) tại thửa số 79 xóm Đ, thôn 2, xã T, huyện TL, tỉnh H là của bà Th, ông N và anh Kh được giao lại quyền sử dụng đất ở này. Bản di chúc không có công chứng, chứng thực chỉ có dấu vân tay nhưng không ghi rõ dấu vân tay là của ai; anh Kh, chị M ký người làm chứng. Tại biên bản đối chất ngày 10/8/2007 anh Kh khai: Vào ngày 27/9/1992 thì mẹ anh là bà Th cũng đã có giấy phân chia nhà đất giữa 5 anh em nhà anh. Nội dung trong biên bản ngày 27/9/1992, bà Th xác định vợ chồng bà có 162m2 đất và các ranh giới chia cho anh D, anh Kh đều có cạnh giáp đất của ông Nguyễn Văn Ngh.
Tại Biên bản xác minh ngày 12/01/2007 do UBND xã T xác nhận có nội dung “Hiện tại nền đất trên phần của ông Ngh vẫn nguyên vẹn như ngày xưa…”. Trên diện tích đất 120,8m2 hiện có 2 cây hồng xiêm, 1 hàng rào duối, 1 nhà vệ sinh là do vợ chồng anh Kh, chị A xây dựng, trồng trọt. Ngoài ra, còn 01 chuồng lợn cũ hỏng do vợ chồng anh D xây dựng.
Bình luận:
* Về yêu cầu đòi quyền sử dụng 120,8 m2 của ông Ngh:
Theo lời trình bày của các đương sự trong vụ án thì các đương sự đều xác nhận nguồn gốc đất tranh chấp là do cụ Nguyễn Văn B và cụ Phan Thị Th để lại cho các con. Nhưng anh Nguyễn Kim Kh không xác nhận diện tích đất đang tranh chấp là diện tích ông Ngh được các cụ chia cho, mà anh cho rằng bố anh là ông Nguyễn Văn N được các cụ chia cho toàn bộ diện tích đất đang tranh chấp và cả phần diện tích trên đó nhà anh đang quản lý, tổng diện tích là 355m2 đất.
Anh Kh không thừa nhận “Văn bản phân chia quyền thừa kế sử dụng đất thổ cư” ngày 31/12/1991 do ông Nguyễn Văn L cùng anh em con cháu trong gia đình lập và có cán bộ Uỷ ban nhân dân xã T về cắm mốc giới đất giữa đất của ông N và đất của ông Ngh. Nhưng ngay tại thời điểm đó thì anh Kh cũng không có ý kiến gì. Tại Trích lục bản đồ năm 1986 cũng đã thể hiện thửa số 79 diện tích 355m2 đất thổ cư đứng tên chủ sử dụng là ông Nguyễn Văn N và ông Nguyễn Văn Ngh. Do vậy, “Văn bản phân chia quyền thừa kế sử dụng đất thổ cư” lập ngày 31/12/1991 phù hợp với trích lục bản đồ. Mặt khác, năm 1967 khi ông N còn sống thì anh Nguyễn Kim D là anh trai anh Kh còn hỏi mượn ông Ngh diện tích đất đang tranh chấp để chăn nuôi và khi không sử dụng nữa anh D đã viết “Giấy bàn giao” ngày 20/3/1994 trả ông Ngh diện tích đất đã mượn. Qua thu thập chứng cứ, UBND xã T cũng đã xác định diện tích đất tranh chấp có diện tích 120,8m2 là của ông Ngh. Anh Kh không xuất trình được chứng cứ gì để chứng minh diện tích đất đang tranh chấp là của ông N - bố anh. Như vậy, việc anh Kh khiếu nại ra không có cơ sở.
Anh Kh xuất trình “giấy giao lại quyền sử dụng đất ở” ngày 15/6/2001 của mẹ anh Kh là bà Nguyễn Thị Th và cho rằng văn bản này là di chúc để chứng minh toàn bộ diện tích đất và nhà (kể cả diện tích đất đang tranh chấp) là của bố mẹ anh và anh được mẹ anh giao lại quyền sử dụng đất ở. Nhưng văn bản này không có công chứng, chứng thực mà chỉ có dấu vân tay cũng không ghi rõ dấu vân tay là của ai và người làm chứng lại anh Kh, chị M lại chính là những người thuộc diện được hưởng thừa kế. Nên nếu văn bản này là di chúc thì không đúng quy định về việc lập di chúc theo Điều 657, 659 BLDS năm 1995. Hơn nữa, toàn bộ diện tích 14,5 thước đất như trong “giấy giao lại quyền sử dụng đất ở” ngày 15/6/2001 không phải là của ông N và bà Th tất cả. Nên việc bà Th viết giấy giao lại quyền sử dụng đất ở cho anh Kh như anh Kh xuất trình là không có cơ sở. Mặt khác, tại phiên toà chính anh Kh cũng thừa nhận trước đây vào ngày 27/9/1992 thì mẹ anh là bà Th cũng đã có giấy phân chia nhà đất giữa 5 anh em nhà anh. Nhưng anh cho rằng, tại giấy này anh bị ép phải ký. Tuy vậy, nội dung trong biên bản này bà Th cũng chỉ xác định vợ chồng bà có 162m2 đất và các ranh giới chia cho anh D, anh Kh đều có cạnh giáp ông Nguyễn Văn Ngh. Từ các phân tích trên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi quyền sử dụng đất của ông Ngh là có căn cứ.
Điều 657 BLDS năm 1995 quy định:
Người làm chứng cho việc lập di chúc
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
Điều 659 BLDS năm 1995 quy định:
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc, thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 656 và Điều 657 của Bộ luật này.
* Về công duy trì bảo quản và tôn tạo đất:
Tại Bản tự khai ngày 21/5/2007, anh Kh đã thừa nhận anh không có chứng cứ chứng minh và con số cụ thể về yêu cầu này. Tại Biên bản xác minh ngày 12/01/2007 thì UBND xã T đã cung cấp có nội dung: “… Hiện tại nền đất trên phần của ông Ngh vẫn nguyên vẹn như ngày xưa…”. Do vậy, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu thanh toán công sức duy trì, bảo quản và tôn tạo diện tích 120,8 m2 đất của anh Kh.
Trên diện tích đất 120,8m2 hiện có 2 cây hồng xiêm, 1 hàng rào duối, 1 nhà vệ sinh là do vợ chồng anh Kh, chị A xây dựng, trồng trọt nên ông Ngh phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị tài sản trên đất do vợ chồng anh Kh, chị A trồng trọt, xây dựng theo Biên bản định giá ngày 12/10/2007 là 3.090.000 đồng. Ngoài ra, trên đất còn 1 chuồng lợn cũ hỏng do anh D xây dựng, nay vợ con anh D tự nguyện không yêu cầu thanh toán giá trị, sự tự nguyện phù hợp với pháp luật nên ghi nhận. Hiện tại, vợ chồng anh Kh và chị A đang quản lý diện tích đất tranh chấp nên cần buộc anh Kh và chị A phải trả 120,8m2 đất cho ông Ngh.
Từ những phân tích trên đây, vụ việc có thể được giải quyết như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Ngh đòi quyền sử dụng đất đối với anh Nguyễn Kim Kh.
2. Xác nhận diện tích đất 120,8m2 tại xóm Đ, thôn 2, xã T, huyện TL, tỉnh H thuộc quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Ngh.
3. Xác nhận 02 cây hồng xiêm, 01 hàng rào duối và 01 công trình phụ là của anh Nguyễn Kim Kh, chị Hoàng Thị A có giá trị là 3.090.000 đồng.
4. Xác nhận 01 chuồng lợn cũ do ông Nguyễn Văn D xây dựng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Chu Thị T cùng các con của ông D, bà T gồm: anh Nguyễn Trường S, chị Nguyễn Thị Kim O, chị Nguyễn Thị Kim P, chị Nguyễn Thị Kim M, anh Nguyễn Kim Đ không yêu cầu ông Ngh thanh toán giá trị chuồng lợn do ông D xây dựng.
5. Buộc anh Nguyễn Kim Kh và chị Hoàng Thị A phải trả lại cho ông Nguyễn Văn Ngh diện tích đất 120,8m2 tại xóm Đ, thôn 2, xã T, huyện TL, tỉnh H.
- Giao cho ông Ngh được sở hữu 02 cây hồng xiêm, 01 hàng rào duối, 01 nhà vệ sinh do anh Kh xây dựng và 01 chuồng lợn cũ hỏng do anh D xây dựng.
- Ông Ngh phải thanh toán cho anh Kh giá trị cây cối và công trình trên đất là 3.090.000 đồng.

Nguồn tin: Bộ Tư Pháp