Tranh chấp hợp đồng thuê nhà - bản án

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà - bản án
Nội dung vụ án: Nguyên đơn - ông Nguyễn Đình S trình bày: Ngày 01/6/2006, ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N và chị Nguyễn Thị Minh H (gọi là bên A) ký hợp đồng cho ông Đào Thanh Tg và bà Hoàng Thị T (gọi là bên B) thuê 35m2 nhà tại số 4A, tổ 13, thị trấn CD, huyện TL, thành phố H của ông S và bà N được Quân đội cấp năm 1991 để ông Tg kinh doanh, quảng cáo, giới thiệu các sản phẩm về ngành nước với giá là 4.000.000 đồng/tháng trong thời hạn 03 năm. Trước khi ký hợp đồng thuê nhà, ngày 30/6/2006 các bên đã ký bản tổng hợp các chi phí tu sửa nhà của ông Tg và bà T với tổng giá trị là 52.254.000 đồng. Số tiền này được trừ vào tiền thuê nhà mỗi tháng là 1.000.000 đồng. Từ ngày 01/6/2006 đến ngày 31/7/2008, ông Tg và bà T đã trả cho ông S và bà N số tiền 78.000.000 đồng, trong đó có 26.000.000 đồng trừ vào tiền tu sửa nhà của ông Tg (26 tháng).

Đến tháng 02/2008, Nhà nước mở đường 32, Công an thị trấn CD (ở phía ngoài) chuyển đi nơi khác, ông Tg đã tự ý phá tường, chuyển cửa hàng từ đường Đ quay sang đường 32 và bịt cửa ra vào nhà của gia đình ông S mà không được sự đồng ý của gia đình ông S. Ông S đã thông báo và yêu cầu bên ông Tg và bà T không được sửa chữa, cơi nới nhà và đã báo chính quyền địa phương nhưng ông Tg và bà T vẫn vi phạm. Ngày 10/3/2008, bên ông S đã thông báo cho ông Tg và bà T là vi phạm hợp đồng thuê nhà và yêu cầu trả nhà. Từ tháng 8/2008 đến nay, ông Tg và bà T không trả tiền thuê nhà.
Diện tích bên ông Tg và bà T đang thực tế sử dụng là 38,11m2, trong đó có 32,78m2 là thuê của gia đình ông S
và 5,33m2 là đất còn lại của cơ quan công an thị trấn CD, sau khi chuyển trụ sở đi nơi khác thì bên ông Tg và bà T tự lấn chiếm.
Ngày 23/01/2009, ông S khởi kiện ông Đào Thanh Tg yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê nhà ngày 01/6/2006 giữa ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N, chị Nguyễn Thị Minh H và ông Đào Thanh Tg, bà Hoàng Thị T trước thời hạn do ông Tg và bà T vi phạm khoản 3 Điều 5 của bản hợp đồng thuê nhà, yêu cầu ông Tg và bà T trả 32,78m2 nhà, tiền thuê nhà từ tháng 8/2008 đến ngày 23/4/2009 là 31.000.000 đồng. Còn 5,33m2 đất của công an thị trấn CD giao cho gia đình ông S tạm thời sử dụng vì diện tích quá nhỏ.
Bà Nguyễn Thị N, chị Nguyễn Thị Minh H trình bày thống nhất với trình bày của ông S.
Bị đơn - ông Đào Thanh Tg trình bày:
Ngày 01/6/2006, ông và vợ ông là bà Hoàng Thị T ký hợp đồng thuê nhà với ông S, không có bà N và chị H, thuê 35m2 nhà tại số 4A, tổ 13, thị trấn CD, huyện TL, thành phố H của ông S và bà N trong thời hạn 5 năm, không phải 3 năm như ông S trình bày. Nếu thời hạn thuê nhà là 3 năm thì ông không đầu tư nâng cấp tu sửa cửa hàng.
Toàn bộ phần tôn tạo cửa hàng ông Tg làm trên đất công với số tiền 52.254.000 đồng và 15.000.000 đồng tiền công do ông Tg bỏ ra trước khi ký hợp đồng thuê nhà với ông S. Do ông S chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hợp đồng thuê được chính quyền xác nhận. Hàng tháng, ông Tg trả tiền thuê nhà là 4.000.000 đồng, đã trả từ ngày 01/6/2008 đến ngày 31/7/2008. Tháng 3/2008, do mưa hắt vào cửa hàng nên gia đình ông Tg đã bịt 2 cửa xếp và đường đi vào nhà ông S vì ông S đã có lối đi riêng khi công an thị trấn CD chuyển đi. Đợt cải tạo này hết 15.600.000 đồng.
Diện tích vợ chồng ông Tg thuê của ông S không nằm trong khuôn viên đất mà Tổng cục Chính trị thanh lý cho ông S mà là đất công, khi Nhà nước dùng ông sẽ trả không thắc mắc gì. Phần nhà đất mà ông S cho ông thuê là nằm trong cửa hàng của bên ông nhưng do ông S không phá tường ngăn phòng giao diện tích nhà cho bên ông nên ông Tg không phải chịu tiền thuê nhà lại. Vì vậy, ông Tg không đồng ý trả nhà cũng như tiền thuê nhà.
Bà T thống nhất với trình bày của ông Tg.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Hợp đồng thuê nhà lập ngày 01/6/2006, giữa bên cho thuê là ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N và chị Nguyễn Thị Minh H (gọi tắt là bên A) và bên thuê là ông Đào Thanh Tg và bà Hoàng Thị T (gọi tắt là bên B) thì diện tích nhà thuê là 35,2m2 (thực tế là 32,8m2) giá thuê là 4.000.000 đồng/tháng trong thời hạn 03 năm (từ ngày 01/6/2006 đến ngày 01/6/2009). Các bên cam kết “Nếu cần sửa chữa tại diện tích nhà thuê phải được sự đồng ý của bên A” và mỗi tháng trừ 1.000.000 đồng tiền vật liệu do ông Tg bỏ ra để tu sửa nhà. Từ ngày 01/6/2006 đến ngày 30/7/2008, ông Tg và bà T đã trả cho ông S và bà N mỗi tháng 3.000.000 đồng (đã trừ 1.000.000 đồng vật liệu xây dựng do ông Tg tu sửa nhà trước khi các bên ký kết hợp đồng).
Công văn số 81/TN-MT ngày 03/4/2009 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện TL gửi Toà án nhân dân huyện TL có nội dung: “Theo Trích lục thửa đất ngày 31/3/2009 của UBND thị trấn CD, gia đình ông Nguyễn Đình S sử dụng thửa đất số 56, tờ bản đồ số 33, diện tích 330m2… Diện tích gia đình ông Đào Thanh Tg thực tế đang sử dụng là 38,11m2 trong đó có 32,78m2 của gia đình ông Nguyễn Đình S và 5,33m2 thuộc đất của công an thị trấn CD…”.
Bình luận:
* Về quan hệ pháp luật tranh chấp:
Ngày 01/6/2006, giữa ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N, chị Nguyễn Thị Minh H và ông Đào Thanh Tg, bà Hoàng Thị T đã ký hợp đồng thuê 35m2 nhà tại số 4A, tổ 13, thị trấn CD, huyện TL, thành phố H của ông S và bà N được Quân đội cấp năm 1991. Quá trình thực hiện hợp đồng, bên cho thuê cho rằng, bên thuê vi phạm hợp đồng nên bên cho thuê - ông S, đã khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê, buộc bên thuê - ông Tg, bà T phải trả tiền thuê nhà từ tháng 8/2008 đến ngày 23/4/2009 là 31.000.000 đồng và giao cho gia đình ông tạm thời sử dụng 5,33m2 đất của Công an thị trấn CD. Từ các tình tiết của vụ án, chúng ta xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là tranh chấp hợp đồng thuê nhà. Hợp đồng thuê nhà là một loại hợp đồng thuê tài sản nên áp dụng các quy định của BLDS năm 2005 về hợp đồng thuê tài sản và hợp đồng thuê nhà, Luật Nhà ở để giải quyết vụ án.
* Về tính hợp pháp của hợp đồng:
Hợp đồng thuê nhà lập ngày 01/6/2006 giữa bên cho thuê là ông S, bà N và chị H với bên thuê nhà là ông Tg và bà T có nội dung thỏa thuận về thời hạn của thuê là 03 năm. Bên cho thuê không thuộc trường hợp quy định tại Điều 93 Luật Nhà ở nên theo quy định tại Điều 492 BLDS năm 2005 phải công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký. Bên cho thuê không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 93 Luật Nhà ở, song các bên đã không thực hiện việc công chứng hoặc chứng thực và đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là vi phạm các quy định tại Điều 134 và Điều 492 của BLDS năm 2005, do đó xác định hợp đồng này vi phạm điều kiện về hình thức. Theo tình tiết vụ án, do các bên trong quan hệ hợp đồng đều không yêu cầu nên Tòa án không quyết định buộc các bên thực hiện quy định về mặt hình thức. Do đó, hợp đồng thuê nhà giữa ông S, bà N, chị H và ông Tg, bà T là vô hiệu do không tuân thủ quy định về mặt hình thức.
Điều 134 BLDS năm 2005 quy định:
Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
Ðiều 492 BLDS năm 2005 quy định:
Hình thức hợp đồng thuê nhà ở
Hợp đồng thuê nhà ở phải được lập thành văn bản, nếu thời hạn thuê từ sáu tháng trở lên thì phải có công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Khoản 3 Điều 93 Luật Nhà ở quy định:
3. Hợp đồng về nhà ở phải có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với nhà ở tại đô thị, chứng thực của Ủy ban nhân dân xã đối với nhà ở tại nông thôn, trừ các trường hợp sau đây:
a) Cá nhân cho thuê nhà ở dưới sáu tháng;
b) Bên bán, bên cho thuê nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở;
c) Thuê mua nhà ở xã hội;
d) Bên tặng cho nhà ở là tổ chức.
* Về giải quyết yêu cầu của nguyên đơn:
Diện tích nhà đất thực tế bên ông Tg, bà T đang quản lý, sử dụng là 38,11 m2 có nguồn gốc 5,33m2 là đất công còn lại là một phần của tổng diện tích 387,6m2 tại số 4A, tổ 13, thị trấn CD, huyện TL, thành phố H thuộc thửa 56, tờ bản đồ 33 lập năm 1994 là của ông Nguyễn Đình S được Cục Tuyên truyền Đặc biệt - Bộ Quốc phòng cấp năm 1991 (thanh lý).
Căn cứ hợp đồng thuê nhà lập ngày 01/6/2006, giữa bên cho thuê là ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N và chị Nguyễn Thị Minh H (gọi tắt là bên A) và bên thuê là ông Đào Thanh Tg và bà Hoàng Thị T (gọi tắt là bên B) thì diện tích nhà thuê là 35,2m2 (thực tế là 32,8m2) giá thuê là 4.000.000 đồng/tháng trong thời hạn 03 năm (từ ngày 01/6/2006 đến ngày 01/6/2009). Các bên cam kết “Nếu cần sửa chữa tại diện tích nhà thuê phải được sự đồng ý của bên A” và mỗi tháng trừ 1.000.000 đồng tiền vật liệu do ông Tg bỏ ra để tu sửa nhà. Quá trình thực hiện hợp đồng, từ ngày 01/6/2006 đến ngày 30/7/2008, ông Tg và bà T đã trả cho ông S và bà N mỗi tháng 3.000.000 đồng (đã trừ 1.000.000 đồng vật liệu xây dựng do ông Tg tu sửa nhà trước khi các bên ký kết hợp đồng ), tổng cộng trong 26 tháng ông S và bà N đã nhận của vợ chồng ông Tg là 78.000.000 đồng tiền cho thuê nhà. Và đã trả cho ông Tg và bà T số tiền 26.000.000 đồng tiền tu sửa nhà. Do đó, ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N, chị Nguyễn Thị Minh H còn phải trả cho ông Đào Thanh Tg, bà Hoàng Thị T số tiền 7.742.000 đồng là số tiền vật liệu còn lại của việc tu sửa nâng cấp cửa hàng thiết bị ngành nước tại 4A, tổ 13, thị trấn CD, huyện TL, thành phố H.
 Đến tháng 02/2008, ông Tg và bà T tự ý bịt cửa phía đường Đ mở sang phía đường 32, đồng thời bịt cửa ra vào nhà của gia đình ông S không được sự đồng ý của gia đình ông S nên phát sinh tranh chấp. Như vậy, ông Tg và bà T có lỗi là tự ý bịt cửa vào nhà ông S, tự ý mở cửa hàng quay ra đường 32 không được sự đồng ý của gia đình ông S là vi phạm thoả thuận hai bên đã cam kết nên bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê theo quy định tại Điều 498 BLDS năm 2005. Tuy nhiên, do hợp đồng thuê vô hiệu, nên việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà giữa ông S, bà N và chị H với ông Tg và bà T là đúng pháp luật.
Do hợp đồng thuê nhà ở vô hiệu nên ông Đào Thanh Tg và bà Hoàng Thị T phải trả toàn bộ diện tích nhà đất tại địa chỉ số 4A, tổ 13, thị trấn CD, huyện TL, thành phố H cho ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N, chị Nguyễn Thị Minh H. Ông Đào Thanh Tg và bà Hoàng Thị T phải chuyển ngay toàn bộ đồ đạc, hàng hoá và tài sản ra khỏi nhà đất thuê của ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N và chị Nguyễn Thị Minh H là cửa hàng thiết bị ngành nước tại địa chỉ số 4A, tổ 13, thị trấn CD, huyện TL, thành phố H.
Ðiều 498 BLDS năm 2005 quy định:
Ðơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở
1. Bên cho thuê nhà có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà khi bên thuê có một trong các hành vi sau đây:
a) Không trả tiền thuê nhà liên tiếp trong ba tháng trở lên mà không có lý do chính đáng;
b) Sử dụng nhà không đúng mục đích thuê;
c) Cố ý làm nhà hư hỏng nghiêm trọng;
d) Sửa chữa, đổi hoặc cho người khác thuê lại toàn bộ hoặc một phần nhà đang thuê mà không có sự đồng ý bằng văn bản của bên cho thuê;
đ) Làm mất trật tự công cộng nhiều lần và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt bình thường của những người xung quanh;
e) Làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến vệ sinh môi trường.
2. Bên thuê nhà có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà khi bên cho thuê có một trong các hành vi sau đây:
a) Không sửa chữa nhà khi chất lượng nhà giảm sút nghiêm trọng;
b) Tăng giá thuê nhà bất hợp lý.
c) Quyền sử dụng nhà ở bị hạn chế do lợi ích của người thứ ba.
3. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà phải báo cho bên kia biết trước một tháng, nếu không có thỏa thuận khác.
Về ý kiến của ông Đào Thanh Tg cho rằng, diện tích đất ông làm cửa hàng là đất công và là đất do ông lấn chiếm không nằm trong đất của gia đình ông S:
Tại Công văn số 81/TN-MT ngày 03/4/2009 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện TL có nội dung: “Theo Trích lục thửa đất ngày 31/3/2009 của UBND thị trấn CD, gia đình ông Nguyễn Đình S sử dụng thửa đất số 56, tờ bản đồ số 33, diện tích 330m2… Diện tích gia đình ông Đào Thanh Tg thực tế đang sử dụng là 38,11m2 trong đó có 32,78m2 của gia đình ông Nguyễn Đình S và 5,33m2 thuộc đất của công an thị trấn CD…”. Diện tích nhà đất tranh chấp tuy gia đình ông S chưa được UBND huyện TL, thành phố H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; nhưng đã có tên trong bản đồ địa chính thị trấn CD. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, ông Tg thừa nhận chữ ký trong hợp đồng thuê nhà lập ngày 01/6/2006 là của vợ chồng ông. Do đó, việc ông Tg cho rằng diện tích nhà đất đang tranh chấp giữa vợ chồng ông và gia đình ông S là đất công và do ông lấn chiếm năm 2006 và ông không thuê nhà của gia đình ông S cũng là không có căn cứ.
Đối với diện tích 5,33m2 (phần bậc thềm trước cửa nhà giáp đường 32) là đất công (còn lại sau khi mở đường 32). Việc lấn chiếm, cơi nới của ông Tg và bà T là không được phép trên đất công nên phải tháo dỡ, do diện tích đất nêu trên vẫn thuộc quyền quản lý của Nhà nước, không thuộc quyền sử dụng của gia đình ông S. Vợ chồng ông S không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất này cũng như các giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 đối với diện tích đất này nên theo quy định tại Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Vì vậy, Tòa án không xem xét, giải quyết yêu cầu của ông S.
Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 quy định:
Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Ủy ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
...
Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 quy định:
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như sau:
a) Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết; quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng;
b) Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng.
Từ những phân tích trên đây, vụ việc có thể được giải quyết như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi nhà đất cho thuê của ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N và chị Nguyễn Thị Minh H đối với ông Đào Thanh Tg và bà Hoàng Thị T.
2. Tuyên bố hợp đồng thuê nhà giữa ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N và chị Nguyễn Thị Minh H đối với ông Đào Thanh Tg và bà Hoàng Thị T lập ngày 01/6/2006 là vô hiệu.
3. Buộc ông Đào Thanh Tg và bà Hoàng Thị T phải chuyển ngay toàn bộ đồ đạc, hàng hoá và tài sản ra khỏi nhà đất thuê của ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N và chị Nguyễn Thị Minh H là cửa hàng thiết bị ngành nước tại địa chỉ số 4A, tổ 13, thị trấn CD, huyện TL, thành phố H.
4. Buộc ông Đào Thanh Tg và bà Hoàng Thị T phải trả toàn bộ diện tích nhà đất do ông Tg và bà T thuê của ông S, bà N và chị H tại địa chỉ số 4A, tổ 13, thị trấn CD, huyện TL, thành phố H cho ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N, chị Nguyễn Thị Minh H.
5. Ông Nguyễn Đình S, bà Nguyễn Thị N, chị Nguyễn Thị Minh H phải trả cho ông Đào Thanh Tg, bà Hoàng Thị T số tiền 7.742.000 đồng là số tiền vật liệu còn lại của việc tu sửa nâng cấp cửa hàng thiết bị ngành nước tại 4A, tổ 13, thị trấn CD, huyện TL, thành phố H.

Nguồn tin: Bộ Tư Pháp