Tranh chấp thừa kế di sản - bản án

Nội dung vụ án: Ông Nguyễn Th mất ngày 09/5/2007, có vợ là bà Hồng Bảo A. Ông Th, bà A có 03 con chung là Nguyễn Hồng C; Nguyễn Hồng S và Nguyễn Hồng Q, ngoài ra ông Th không có người con đẻ, con nuôi, con riêng nào khác.
Nguồn gốc căn hộ tại phòng 116 (cũ phòng 16) - C1 - tập thể KL - quận Đ - thành phố H do Bộ kiến trúc phân cho bà Hồng Bảo A ngày 14/7/1967. Năm 1987, ông Th được phân thêm 01 căn hộ tại phòng 103 (cũ phòng 3) - C5 - tập thể KL - quận Đ - thành phố H. Năm 1991, ông bà ly hôn đã tự phân chia tài sản cụ thể: Ông Th được chia 1/2 căn hộ tại phòng 116 (cũ phòng 16) - C1 - tập thể KL và căn hộ tại phòng 103 (cũ phòng 3) - C5 - tập thể KL. Ngày 06/12/2000, ông Nguyễn Th được UBND thành phố H cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với diện tích đất ông được chia. Sau khi ông Th ly hôn thì 02 căn hộ này do ông Th cùng gia đình anh C ở quản lý và sử dụng.
Ngày 18/4/2006, ông Th lập chúc thư, di chúc do ông Th viết tay, không có người làm chứng. Di chúc gồm có 02 trang, mỗi trang đều có chữ ký của ông Th, nội dung để lại tài sản cho các con của ông Th cụ thể: Anh C được hưởng toàn bộ diện tích nhà đất tại phòng 103 (cũ phòng 3) - C5 - tập thể KL - quận Đ - thành phố H gồm có phần đất tự tạo (lưu không) và 10m2 kiốt tại phòng 116 - C1. Anh S được hưởng 2/3 diện tích phòng 116 nhà C1 tập thể KL; chị Q được hưởng 1/3 diện tích phòng 116 nhà C1 tập thể KL bao gồm cả phần đất tự tạo (lưu không: có phần nhà xây trên đất lưu không liền kề phần nhà chính có diện tích 22,75m2). Ngày 15/01/2008, chị Q khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của ông Th theo di chúc.
Anh Nguyễn Hồng C cũng nhất trí với lời khai của chị Q nhưng theo anh toàn bộ diện tích lấn chiếm là do anh tự lấn chiếm, tự xây nhà. Nay anh chỉ đồng ý phần di chúc của ông Th đối với diện tích đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần lấn chiếm bố anh định đoạt cả là không đúng nên anh chỉ đồng ý trả phần nhà 20,2m2 đã được cấp Giấy chứng nhận, phần anh lấn chiếm anh không đồng ý trả.
Anh Nguyễn Hồng S thống nhất với lời khai của chị Q yêu cầu Tòa công nhận di chúc.
Chị Trần Thị Kim T (vợ anh C) nhất trí với lời khai của anh C.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Tại biên bản lấy lời khai ngày 20/4/2008, anh C khai có nội dung vào cuối năm 2006 anh đã dùng tiền của bố để sửa nhà. Tại phiên hòa giải ngày 24/6/2008, chị Q, anh Sơn cũng đã tự nguyện thanh toán khoản tiền 24.944.160 đồng là tiền sửa chữa xây dựng cho anh C.
Trong quá trình giải quyết vụ án, anh C có đơn yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định chữ ký của ông Nguyễn Th tại chúc thư lập ngày 18/4/2006. Tại Kết luận giám định số 920/C21 (P6) ngày 06/5/2009 của Viện khoa học hình sự, Tổng cục cảnh sát đã kết luận: “Chữ ký đứng tên “Nguyễn Th” dưới mục “người viết chúc thư” trên 20trang tài liệu cần giám định đề “chúc thư” ngày 18/4/2006 (ký hiệu A1-2) với chữ ký của ông Nguyễn Th trên các trang tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1; M2; M3; M4; M5-2; M6-2; M7-2 là do cùng một người ký ra”.
Diện tích 10m2 kiốt, các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình các đương sự đã tự giải quyết không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Bình luận:
* Về người để lại thừa kế, người thừa kế:
Ông Nguyễn Th mất ngày 09/5/2007, có vợ là bà Hồng Bảo A. Ông bà có 03 con chung là anh C, anh S, chị Q. Năm 1991, ông bà ly hôn đã tự chia nhau tài sản xong. Ngoài ba người con đẻ, ông Th không còn con đẻ, con nuôi, con riêng nào khác. Căn cứ BLDS năm 2005, xác định ông Th là người để lại thừa kế. Theo quy định tại Điều 635 BLDS năm 2005, anh C, anh S, chị Q được ông Th chỉ định trong di chúc hưởng di sản thừa kế của ông và còn sống vào thời điểm mở thừa kế nên là người thừa kế theo di chúc của ông Th.
* Về di sản thừa kế:
Anh C, anh S và chị Q đều xác định ông Th mất đi có để lại 02 khối tài sản gồm căn hộ P116 (cũ P16) - C1 diện tích 20,2m2 và căn hộ P103 (cũ P3) - C5 diện tích 18,5m2 tại khu tập thể KL hiện đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Th. Ngoài ra, còn xây dựng nhà trên phần đất lưu không liền kề với 02 căn hộ trên. Theo chị Q, anh S thì phần xây dựng nhà là tiền của, công sức của ông Th bỏ ra. Theo anh C, chị T thì toàn bộ tiền của, công sức xây dựng nhà trên phần đất lưu không là của vợ chồng anh chị bỏ ra. Tuy nhiên, anh C, chị T không đưa ra được các chứng cứ chứng minh cho việc sửa chữa của mình. Hơn nữa, anh C còn xác nhận vào cuối năm 2006 anh đã dùng tiền của bố để sửa nhà. Về thực tế, ông Th là chủ sở hữu 02 căn hộ nêu trên. Trong quá trình ở và quản lý nhà này, ông Th mới là người được quyền lấn chiếm xây dựng phần đất lưu không phía trước hoặc phía sau căn hộ. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Q, anh S cũng đã tự nguyện thanh toán khoản tiền 24.944.160 đồng là tiền sửa chữa xây dựng cho anh C.
Tuy nhiên, phần đất lưu không nói trên thuộc quyền quản lý của nhà nước nên diện tích đất này không phải là di sản thừa kế của ông Th. Do đó, xác định di sản của ông Th để lại bao gồm: Nhà tại P116 - C1 theo biên bản định giá có giá trị là: 353.663.136 đồng (giá trị của căn hộ P116) + 24.944.160 đồng (giá trị vật liệu xây dựng trên phần đất lưu không) = 378.607.296 đồng. Nhà tại P103 - C5 theo biên bản định giá có giá trị là: 259.000.000 đồng (giá trị của căn hộ P103) + 28.574.000 đồng (giá trị vật liệu xây dựng trên phần đất lưu không) = 287.574.000 đồng.
Đối với diện tích 10m2 kiốt, các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình các đương sự đã tự giải quyết không yêu cầu Tòa án xem xét nên không phải xét.
* Về tính hợp pháp của di chúc:
- Về hình thức của di chúc:
Bản di chúc do ông Th viết tay, không có người làm chứng. Di chúc gồm có 02 trang, mỗi trang đều có chữ ký của ông Th. Như vậy, đây là di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, căn cứ theo quy định tại Điều 653, 655 BLDS năm 2005 hình thức của bản chúc thư ông Th lập ngày 18/4/2006 là đúng quy định của pháp luật.
- Về nội dung của di chúc:
Ngày 18/4/2006, ông Th có lập chúc thư để lại tài sản cụ thể: Phần cho con trai cả Nguyễn Hồng C trước đây tôi đã cho C sử dụng để ở phần nhà bên C5, nay tôi vẫn để cho C ở như cũ. Sau khi tôi mất đi, tôi sẽ cho thêm C một kiốt gần 10m2 ở đầu hồi nhà C1, ngoài C ra sau này là của cháu nội tôi là Nguyễn Thanh L mới được hưởng, còn những người khác không có phần. Phần nhà đất liền kề tự tạo ở P116 - C1 tập thể KL (kể cả sân) bằng 50,2m2 tôi sẽ cho S 2/3 và cho Q 1/3.
Trong quá trình giải quyết vụ án, anh C có đơn yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định chữ ký của ông Nguyễn Th tại chúc thư lập ngày 18/4/2006. Tại Kết luận giám định số 920/C21 (P6) ngày 06/5/2009 của Viện khoa học hình sự, Tổng cục cảnh sát đã kết luận: “Chữ ký đứng tên “Nguyễn Th” dưới mục “người viết chúc thư” trên trang 2 tài liệu cần giám định đề “chúc thư” ngày 18/4/2006 (ký hiệu A1-2) với chữ ký của ông Nguyễn Th trên các trang tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1; M2; M3; M4; M5-2; M6-2; M7-2 là do cùng một người ký ra”.
Như vậy, ông Th lập di chúc là hoàn toàn tự nguyện, thể hiện ý chí đích thực của ông. Di chúc có nội dung định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của ông cho 03 người con. Vì vậy, nội dung của bản di chúc này là hợp pháp.
Di chúc ngày 18/4/2006 có nội dung và hình thức phù hợp với pháp luật nên được công nhận.
Từ những phân tích trên, xác định phần diện tích nhà đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng sở hữu hợp pháp mang tên ông Nguyễn Th là di sản thừa kế của ông Nguyễn Th và công nhận di chúc của ông Th về phần nhà đất này là có căn cứ và đúng pháp luật.
Ðiều 652 BLDS năm 2005 quy định:
Di chúc hợp pháp
1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Ðiều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.
Ðiều 653 BLDS năm 2005 quy định:
Nội dung của di chúc bằng văn bản
1. Di chúc phải ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản;
đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Ðiều 655 BLDS năm 2005 quy định:
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Ðiều 653 của Bộ luật này.
Từ những phân tích trên đây, vụ việc có thể được giải quyết như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu chia thừa kế theo di chúc của chị Nguyễn Hồng Q đối với anh Nguyễn Hồng C về việc chia thừa kế di sản của ông Nguyễn Th.
2. Xác định khối tài sản của ông Nguyễn Th để lại gồm có căn hộ tại P116 - C1 và căn hộ P103 - C5 khu tập thể KL, quận Đ, thành phố H có tổng diện tích là 38,7m2 được UBND thành phố H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 26/12/2000 mang tên ông Nguyễn Th cộng với giá trị phần nguyên vật liệu xây dựng trên phần đất lưu không tại 02 căn hộ nêu trên là di sản thừa kế của ông Nguyễn Th.
3. Xác định thời điểm mở thừa kế di sản của ông Nguyễn Th là ngày 09/5/2007.
4. Hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Th gồm: Anh Nguyễn Hồng C; chị Nguyễn Hồng Q; anh Nguyễn Hồng S.
5. Xác định di chúc do ông Nguyễn Th lập ngày 18/4/2006 là hợp pháp đối với di sản là căn hộ P116 - C1 và căn hộ P103 - C5 khu tập thể KL, quận Đ, thành phố H cộng với giá trị phần nguyên vật liệu xây dựng trên phần đất lưu không tại 02 căn hộ nêu trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Nguyễn Th.
- Giao cho anh Nguyễn Hồng S, chị Nguyễn Hồng Q sở hữu, sử dụng chung căn hộ P116 - C1 tập thể KL, phường KL, quận Đ, thành phố H diện tích 20,2m2 đã được UBND thành phố H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Th ngày 06/12/2000 và toàn bộ giá trị vật liệu xây dựng đã được xây dựng tại phần đất lưu không (bao gồm 01 gian nhà + sân) liền kề với căn hộ P116 nêu trên.
- Giao cho anh Nguyễn Hồng C sở hữu, sử dụng căn hộ P103 (cũ phòng 3) - C5 tập thể KL, quận Đ, thành phố H diện tích 18,5m2 đã được UBND thành phố H cấp Giấy chứng nhận quyền quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Th ngày 06/12/2000 và toàn bộ giá trị vật liệu xây dựng tại phần đất lưu không liền kề với căn hộ P103 nêu trên.
- Các đương sự phải chấp hành các quy định của các cơ quan có thẩm quyền về quản lý, sử dụng đất.
6. Ghi nhận sự tự nguyện của anh S và chị Q thanh toán cho anh C, chị T 24.944.160 đồng tiền nguyên vật liệu xây dựng trên đất lưu không.