Tranh chấp lối đi - bản án

Tranh chấp lối đi - bản án
Trong ngày 08 tháng 8 năm 2011 tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 139/2010/TLST-DS ngày 21 tháng 5 năm 2010 về tranh chấp quyền sử dụng đất (tranh chấp lối đi) theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2011/QĐXX-ST ngày 21 tháng 7 năm 2011 giữa các đương sự:
  
1.     Nguyên đơn: Bà Đoàn Thị Thanh - Sinh năm: 1956.
Địa chỉ: Số B5/131A ấp 2, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.
 
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:
Ông Nguyễn Sơn Lâm - Sinh năm: 1981.
Địa chỉ: E8/3D đường Tân Túc, khu phố 5, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. (giấy ủy quyền lập ngày 10/5/2010)
 
2.     Bị đơn: Bà Huỳnh Thị Kim - Sinh năm: 1960.
Địa chỉ: B9/260 ấp 2, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.
 
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
    3.1 Ông Trần Tuấn Hưng - Sinh năm: 1954.
Địa chỉ: B5/131A ấp 2, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.
    3.2 Ông Đoàn Văn Hùng - Sinh năm: 1960.
Địa chỉ: B9/260 ấp 2, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.
 
 
NHẬN THẤY
 
         
- Nguyên đơn, bà Đoàn Thị Thanh trình bày:
          Nguyên trước đây bà Thanh có cho bà Kim tạm đi qua phần đất của bà Thanh, phần đất mà bà Thanh đi tạm thuộc thửa đất số 116 tờ bản đồ số 14, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh, phần đất này bà Thanh được Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03152/QSDĐ/ĐP ngày 20/12/2002.
Hiện nay bà Kim đã có lối đi riêng, bà Thanh không đồng ý cho bà Kim đi băng ngang qua phần đất của bà Thanh.
Bà Thanh yêu cầu Toà án buộc bà Kim không được đi băng ngang qua phần đất của bà Thanh thuộc thửa đất số 116 tờ bản đồ số 14, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh.
          Tại phiên tòa, ông Lâm là người đại diện hợp pháp của bà Thanh yêu cầu Tòa án buộc bà Kim không được đi ngang qua phần đất của bà Thanh thuộc thửa đất số 116 tờ bản đồ số 14, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh.
- Bị đơn, bà Huỳnh Thị Kim trình bày:
 Đã từ lâu từ ngoài đường lộ dẫn đến nhà bà Kim là một con đường nhỏ, khoảng giữa con đường từ ngoài lộ chạy vào có các hộ dân cư trú hai bên con đường, phần cuối đường dẫn đến nhà bà Kim hai bên con đường là đất ruộng.
Khoảng năm 1996, cha mẹ chồng bà Kim cho vợ chồng bà Kim, ông Hùng một phần đất để bà Kim, ông Hùng canh tác, trên đất có xây dựng một căn nhà nhỏ để gia đình bà Kim, ông Hùng sinh sống ổn định.
Sau này cha mẹ chồng bà Kim chuyển nhượng đất cho bà Thanh, bà Thanh lấy lý do đã mua đất và không đồng ý cho gia đình bà Kim đi trên con đường dẫn vào nhà bà Kim. Hiện nay chỉ có một con đường dẫn từ ngoài lộ vào nhà bà Kim.
Bà Kim không đồng ý việc bà Thanh yêu cầu Tòa án không cho bà Kim đi trên con đường đã có từ lâu.
          Tại phiên tòa, bà Kim không đồng ý việc bà Thanh yêu cầu Tòa án không cho bà Kim đi trên con đường đã có từ lâu.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Tuấn Hưng trình bày:
Ông Hưng và bà Thanh là vợ chồng từ năm 1984.
Phần đất thuộc thửa 116 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03152 QSDĐ/ĐP do Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp ngày 20/12/2002 là đất riêng của gia đình bà Thanh, ông Hưng chứ không có con đường đi nào cả, đây không phải là đường đi công cộng mà là bờ ranh gữa 2 thửa đất của gia đình bà Thanh, ông Hưng.
Hiện bà Kim đã có lối đi riêng, ông Hưng yêu cầu bà Thanh chấm dứt việc đi ngang qua phần đất của gia đình bà Thanh, ông Hưng.
Ông Hưng có đơn yêu cầu Tòa án hòa giải xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, ông Đoàn Văn Hùng trình bày:
          Ông Hùng là em ruột của bà Thanh và là chồng của bà Kim, việc bà Thanh không cho bà Kim đi lại trên bờ đất là không đúng, vì gia đình bà Thanh, ông Hùng đi lại trên bờ đất từ xưa đến nay, hiện không có con đường nào khác để gia đình bà Kim, ông Hùng đi từ nhà ra lộ.
          Đề nghị Tòa án bác bỏ yêu cầu của bà Thanh.
          Ông Hùng có đơn yêu cầu Tòa án hòa giải, xét xử vắng mặt.
 
 
XÉT THẤY
 
         
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
          1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Bà Thanh khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Kim, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân căn cứ theo quy định tại khoản 7 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối tượng tranh chấp là đất đai tại địa bàn huyện Bình Chánh thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh căn cứ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự
         
2. Về các yêu cầu của các đương sự:
          Căn cứ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03152/QSDĐ/ĐP do Ủy ban nhân huyện Bình Chánh cấp ngày 20/12/2002, bà Đoàn Thị Thanh được quyền sử dụng 2,285 m2 đất vườn thuộc thửa số 116 tờ bản đồ số 14, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh. Nguồn gốc đất do bà Lê Thị Nữ chuyển nhượng cho bà Đoàn Thị Thanh theo hợp đồng chuyển nhượng số 512/CN ngày 20/12/2002, tách từ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 891/QSDĐ/ĐP ngày 05/7/2002 do Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp cho hộ bà Lê Thị Nữ.
Căn cứ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 891/QSDĐ/ĐP ngày 05/7/2002, hộ bà Lê Thị Nữ được quyền sử dụng 8,841 m2 đất thuộc các thửa đất số 326, 119, 118, 117, 116, 126 tờ bản đồ số 13, 14 xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, tại phần bản đồ đồ hiện trạng các thửa đất có ghi nội dung “có 1 phần chịu sự chi phối của công trình công ích”.
Căn cứ bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ lập ngày 12/11/2000, có thể hiện đường đất phân chia các thửa đất 123, 119, 118, 117 và các thửa đất 124, 116.
Theo biên bản xác minh do Toà án nhân dân huyện Bình Chánh lập ngày 21/10/2010, có nội dung như sau:
“Căn nhà không số ấp 2, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh (nhà bà Kim) được xây cất giữa ruộng, xung quanh nhà là ruộng lúa, chỉ có một con đường mòn hiện hữu chiều ngang khoảng 1 mét để đi ra đường chùa Tam Bửu”.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở pháp lý để kết luận con đường đất bắt đầu từ ruộng lúa nhà bà Kim dẫn đến đường đất đi ra hướng quốc lộ 50 đã có trước khi bà Nữ chuyển nhượng đất cho bà Thanh vào ngày 20/12/2002, và hiện nay là lối đi duy nhất từ ruộng lúa nhà bà Kim để đi ra đường đất đi ra hướng quốc lộ 50.
Do đó, khi xem xét yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận thấy giữa gia đình bà Thanh và gia đình bà Kim có quan hệ họ hàng, bà Thanh là chị chồng của bà Kim, hoàn cảnh nhà bà Kim có khó khăn, nhà được xây dựng tạm vách tole, mái tole, gia đình bà Kim sử dụng đường đất phân chia các ruộng lúa là lối đi duy nhất để hướng ra Quốc lộ 50.
Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của bà Thanh về việc yêu cầu Toà án buộc bà Kim không được đi ngang qua phần đất của bà Thanh thuộc thửa 116 tờ bản đồ số 14, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh.
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 275 Bộ luật Dân sự năm 2005,
“Trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sỡ hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù”.
        
3. Về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí đo vẽ, chi phí định giá:
          Bà Thanh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 200.000 đồng.
          Bà Thanh phải chịu chi phí đo vẽ 1.654.950 đồng và chi phí định giá 500.000 đồng. Bà Thanh đã tạm nộp chi phí đo vẽ và chi phí định giá.
         
 
          Vì các lẽ trên,
 
QUYẾT ĐỊNH
 
          Căn cứ khoản 7 Điều 25, điểm c khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự;
          Căn cứ Điều 136 Luật đất đai năm 2003;
          Căn cứ khoản 3 Điều 275 Bộ luật dân sự năm 2005;
          Căn cứ Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án,
         
Xử:
         
1/ Không chấp nhận yêu cầu của bà Đoàn Thị Thanh về việc yêu cầu Toà án buộc bà Huỳnh Thị Kim không được đi ngang qua phần đất thuộc quyền sử dụng của bà Thanh, thuộc thửa số 116 tờ bản đồ số 14, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.
         
2/ Án phí dân sự sơ thẩm, chi phí đo vẽ, chi phí định giá:
Bà Thanh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 022729 ngày 21/5/2010, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, bà Thanh được hoàn lại số tiền chênh lệch 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).
Bà Thanh phải chịu chi phí đo vẽ 1.654.950 đồng (Một triệu sáu trăm năm mươi bốn ngàn chín trăm năm mươi đồng) và chi phí định giá 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng), bà Thanh đã nộp đủ chi phí đo vẽ và chi phí định giá.
Bà Kim không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, chi phí đo vẽ và chi phí định giá.
3/ Quyền kháng cáo:
          Các đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án tuyên án.
          Riêng các đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết.
 
Nơi nhận:                                            TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Các đương sự;                                      THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND TP.HCM;
- VKSND HBC;
- Chi cục THA dân sự HBC;
- Lưu HS.
 
                                                                                   
                                                                      Phạm Thái Lâm