Con hưởng thừa kế bố mẹ

Tôi sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà của bố mẹ tôi tại 44, Thụy Khuê, Hà Nội trong 1 gia đình có 9 anh em (có 2 anh đã chết). Ngôi nhà này do bố mẹ tôi mua từ thời Pháp thuộc với giá là 150.000 đồng. Năm 1973 mẹ tôi mất và năm 1982 bố tôi lấy vợ hai. Hiện nay chỉ có gia đình tôi đang ở tại đây. Nhưng đến tháng 4/2004 tôi mới được biết rằng ngôi nhà này đã được cấp sổ đỏ cho bố tôi và mẹ kế (cấp vào năm 2000) mà tôi không hề biết. Và bố mẹ tôi đã làm giấy cho đứt người em gái út của tôi và đuổi tôi ra khỏi nhà. Hỏi: Tôi có được hưởng quyền lợi đối với ngôi nhà của bố mẹ không? Tôi phải làm gì để được ở trong ngôi nhà của bố mẹ?
Vì ngôi nhà do bố mẹ ông mua khi mẹ ông (người vợ cả) còn sống nên căn cứ điều 15 Luật hôn nhân gia đình năm 1959 quy định: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” thì một nửa ngôi nhà này là của mẹ ông. Năm 1973 mẹ ông mất không có di chúc nên phần tài sản của mẹ ông trong khối tài sản chung vợ chồng là di sản thừa kế chưa chia của mẹ ông để lại cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(1)quy định về những người thừa kế của hàng thừa kế thứ nhất gồm: “Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Do đó bố của ông và 7 anh chị em của ông và những người thừa kế của 2 người anh đã mất (nếu có) sẽ được hưởng thừa kế một nửa căn nhà đó. Gia đình anh tuy ở căn nhà này nhưng anh chỉ được 1 phần chứ không được hưởng cả ngôi nhà và vì chưa có ai yêu cầu chia nên ngôi nhà này vẫn là  tài sản chung của các đồng thừa kế. Do vậy việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ngôi nhà cho bố ông và người mẹ kế là không đúng vì đây không phải là tài sản chung vợ chồng của bố và mẹ kế.
Nay người em gái út được bố và người mẹ kế cho ngôi nhà này và đang yêu cầu gia đình anh ra khỏi nhà. Căn cứ tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 10/8/2004 quy định như sau: “Trong thời hạn 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và cùng có văn bản xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn 10 năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung  của các thừa kế ....Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản  chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.
Như vậy ông và các anh chị em khác là những đồng thừa kế của mẹ ông có thể khởi kiện để chia tài sản chung là một nửa ngôi nhà. Còn đối với người vợ thứ hai của bố ông và người con riêng của bố ông với người vợ này không nằm trong diện thừa kế của mẹ ông do đó không có quyền hưởng thừa kế của mẹ ông.
------------------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.