Vợ tự bán đất chồng lấy lại được không ?

Xin cho hỏi: Vào năm 2003 tôi có mua của chị tôi một mảnh đất với diện tích là 650m2 trị giá 5.000.000đ và 3 chỉ vàng 24 kara. Lúc đó chị có làm tờ sang nhượng cho tôi nhưng chị không đưa giấy chứng nhận QSDĐ vì chị nói là đang thế chấp ở tiệm bán đồ phụ tùng. Vì vậy ngày qua ngày tôi không có làm giấy chứng nhận QSDĐ được. Cho đến nay sở địa chính tỉnh xuống làm giấy chủ quyền mới , tôi mới ra hỏi chị để lấy giấy chứng nhận QSDĐ thì chị nói là đang vay vốn ngân hàng không có. tôi cũng thông cảm cho chị nhưng khoảng một thời gian sau đó khoảng 1 tháng tôi ra hỏi lần nữa thì chị bảo ngang là không đưa, nhưng tôi không biết lí do tại sao. sự việc là như trên, khi tôi làm đơn ra chính quyền xã để xử thì chị bảo rằng: tôi có bán cho em tôi nhưng lúc bán thì chồng tôi đi làm ăn xa nên tôi xin chuộc lại cho con tôi ở sau này. - nghe chị bảo thế, vì nghỉ tình chị em và không muốn chuyện mâu thuẩn trong nội bộ gia đình nêm tôi cũng đồng ý. nhưng sau đó chị lại không thực hiện như những gì đả nói, chị lại bảo rằng: tôi có bán nhưng chỉ bán 1 phần trong 650m2 thôi. Nhưng khi tòa hỏi là bao nhiêu m2 thì chị bảo không biết. Sự việc trình bày là như thế, trong lúc chị tôi sang nhượng cho tôi thì còn có nhân chứng nữa đó là mẹ và chị dâu của tôi đồng thồi cũng là mẹ và em dâu của chị. trong tờ sang nhượng đất vì nghỉ chị em nên tôi không ghi rỏ diện tích đất vì cái cớ đó nên chị mới nói ngang. với phần trong tờ sang nhượng chỉ có chữ kí của tôi, chị và người chứng kiến không có chữ kí của chồng chị( lúc bảo chồng chị kí thì anh ấy bảo là: vườn mẹ nó cho nó, nó muốn bán gì thì tôi không quan tâm.), anh ấy bảo thế mà giờ lại nói là: vợ tôi bán vườn tôi không hay biết gì, trong tờ sang nhượng không có chữ kí của tôi nên không tính được. cuối cùng xin cho tôi hỏi tôi phải làm thế nào với sự việc trên theo đúng với quy định của pháp luật, tôi có lấy lại được giấy chứng nhận QSDĐ không? XIN CÁM ƠN!
Trước hết bạn cần phải hoàn tất thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc phòng tài nguyên và môi trường cấp huyện, nơi có đất nếu mảnh đất này chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) hoặc đã có GCN nhưng vẫn còn mang tên người chủ trước đây. Trong quá trình thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận cho bạn, nếu không có tranh chấp xảy ra thì bạn được xem xét cấp GCN QSDĐ theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp người chủ trước đây có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp, thì việc cấp GCN sẽ tạm hoãn cho đến khi tranh chấp được giải quyết xong.
          Khi có tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, thì tại điểm b.3 tiểu mục 2.3 của nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10.8.2004 của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao có quy định nếu hợp đồng chuyển nhượng được xác lập từ sau ngày 15.10.1993 đến trước ngày 1-7-2004 không có công chứng hoặc chứng thực nhưng đất đã có GCN QSDĐ hoặc các giấy tờ về QSDĐ theo khoản 1, 2 và khoản 5 luật Đất đai và hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ không đảm bảo về hình thức mà có phát sinh tranh chấp thì theo điểm b.1 tiểu mục 2.3 mục 2 nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP nếu từ ngày 1.7.2004 mới có yêu cầu toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này. Như vậy, trong trường hợp này, nếu những điều kiện khác để hợp đồng có hiệu lực vẫn được đảm bảo như chủ thể của hợp đồng có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, giao kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện và mục đích, nội dung của hợp đồng không trái với pháp luật và đạo đức xã hội thì hợp đồng này không bị xem là vô hiệu, các bên được hưởng quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ của mình tương ứng quy định trong hợp đồng.                    Sau khi có kết quả giải quyết tranh chấp của TAND có thẩm quyền, UBND cấp huyện nơi có đất sẽ căn cứ trên bản án, quyết định của toà án để cấp GCN QSDĐ.