Tranh chấp bức tường giữa hai nhà

Ngày 27 tháng 9 năm 2012, Tòa án nhân dân Quận Tân Bình mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 284/2012/TLST-DS ngày 04 tháng 11 năm 2012 về “Tranh chấp bức tường giữa hai nhà” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2012/QĐST-DS ngày 07 tháng 9 năm 2012
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH
Với Thành phần  Hội Đồng Xét xử sơ thẩm gồm có:
 
-         Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Văn Đức 
-         Các Hội Thẩm Nhân Dân: 
1/  Ông Nguyễn Tấn Quang
2/  Bà Hoàng Thị Kim Yến
-         Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:
Ông Trần Ngọc Thuận – Kiểm sát viên
-   Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa : Ông Ngô Trương Bảo – Cán bộ Tòa nhân dân quận Tân Bình.
             Ngày 27 tháng 9 năm 2012, Tòa án nhân dân Quận Tân Bình mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 284/2012/TLST-DS ngày 04 tháng 11 năm 2012 về “Tranh chấp bức tường giữa hai nhà” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2012/QĐST-DS ngày 07 tháng 9 năm 2012 giữa các đương sự :
Nguyên đơn : Ông Phạm Trường Ấn
          Địa chỉ : 911/32/5/17 Lạc Long Quân, phường 11, quận Tân Bình
          Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
          Bà Phạm Thị Nhàn, sinh năm 1960
          Địa chỉ : 911/32/5/17 Lạc Long Quân, phường 11, quận Tân Bình
          Người đại diện hợp pháp cho ông Ấn bà Nhàn: Ông Lê Lành, sinh năm 1959
          Địa chỉ : 47/6/17 Trường Chinh, phường 11, quận Tân Bình
          (Giấy ủy quyền do phòng công chứng số 4 chứng thực ngày 20/10/2011 và ngày  04/9/2012.
         Bị đơn     : Ông Võ Thành Long, sinh năm 1968
         Địa chỉ              : 305 Chung Cư 1, Tân Sơn Nhì, phường 14, quận Tân Bình
Người đại diện hợp pháp : Ông Lý Đông Châu, sinh năm 1974
Địa chỉ : 236/2A1 Phú Hòa, phường 8, Tân Bình
(Giấy ủy quyền do phòng công chứng số 4 chứng thực ngày 21/11/2011)
NHẬN THẤY:
   Theo đơn khởi kiện ngày 06/10/2011 Tòa án nhân dân quận Tân Bình tiếp nhận ngày 08/9/2011, lời trình bày trong các bản tự khai và ý kiến yêu cầu trong các phiên hòa giải tại TAND quận Tân Bình, đại diện nguyên đơn trình bày:
Ông Ấn, bà Nhàn là chủ sở hữu căn nhà 947/77 Lạc Long Quân, P11, Tân Bình theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH00464 do UBND quận Tân Bình cấp ngày 22/4/2011, tại trang II của Giấy chứng nhận thì toàn bộ các vách tường của nhà ông Ấn đều được thể hiện bằng ký hiệu kỹ thuật họa đồ là mũi tên hướng vào trong với ý nghĩa là tường riêng của nhà ông Ấn, bà Nhàn. Ông Võ Thành Long chủ sở hữu căn nhà 947/75 Lạc Long Quân, P11, Tân Bình đã có hành vi tranh chấp quyền sở hữu đối với bức tường của nhà ông Ấn bà Nhàn. Đây là hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông Ấn, ông bà Ấn khẳng định bức tường căn nhà 947/77 tiếp giáp căn nhà 947/75 của ông Võ Thành Long là bức tường thuộc sở hữu của ông bà Ấn. Vì vậy, đề nghị quý Tòa xem xét công nhận quyền sở hữu của ông bà Ấn đối với bức tường nêu trên, đồng thời buộc ông Võ Thành Long phải xây tường riêng cho nhà mình để phân định rõ ràng và tránh việc va chạm, tranh chấp sau này.
 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Phạm Thì Nhàn do ông Lê Lành đại diện theo ủy quyền trình bày: Bà Nhàn thống nhất với mọi ý kiến và yêu cầu của ông Ấn.
Đại diện bị đơn, ông Lý Đông Châu trình bày :
Ông Long là chủ căn nhà số 947/75 (Số cũ 1031) Lạc Long Quân, phường 11, quận Tân Bình.  Nguồn gốc căn nhà do ông Long mua lại của ông Lê Đức Anh. Các chứng từ sở hữu hoặc các bản vẽ từ trước đến nay đều thể hiện căn nhà trên có tường riêng. Tuy nhiên chủ sở hữu căn nhà liền kề nhà của ông Long là nhà số 947/77 của ông Phạm Trường Ấn lại cố tình sử dụng bức tường này mà chưa được sự đồng ý của ông Long. Bởi vì ông Phạm Trường Ấn cũng cho rằng bức tường trên thuộc quyền sở hữu của nhà ông ta.
Nay ông Long yêu cầu Tòa án  xem xét để xác định bức tường trên thuộc quyền sở hữu của nhà ông Long.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại phiên tòa hôm nay:
Nguyên đơn:
          Vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu của mình,        
          Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :   
          Vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu của mình,        
Bị đơn:
Tại phiên tòa xuất trình thêm chứng cứ là bản vẹ hiện trạng số 432/ĐKHT do Xưởng thiết kế Phòng quản lý đô thị quận Tân Bình lập ngày 29/01/1994 để bổ sung thêm chứng cứ xác định tường tiếp giáp với nhà 947/77 là tường của nhà 947/75 và yêu cầu Hội đồng xét xử công nhận bức tượng giữa hai nhà 947/77 và 947/75 Lạc Lông Quân là tường riêng của nhà 947/75.
Đại diện viện kiểm sát Tân Bình phát biểu: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng chấp hành tốt các quy định của luật pháp về tố tụng dân sự.
XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận định:
Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH00464 do UBND quận Tân Bình cấp ngày 22/4/201 và một số chứng từ liên quan khác ông Phạm Trường Ấn và bà Phạm Thị Nhàn cho rằng bức tường giữa hai nhà của ông bà số 947/77 Lạc Long Quân tiếp giáp căn nhà 947/75 Lạc Long Quân của ông Võ Thành Long là bức tường thuộc sở hữu của ông bà, trong quá trình sử dụng, ông bà bị ông Long xâm phạm, nay đề nghị quý Tòa xem xét công nhận quyền sở hữu của ông bà đối với bức tường nêu trên. Xét thấy việc khởi kiện của nguyên đơn phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 25; điểm a khoản 1 Điều 33; điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.
Nguyên đơn, lập giấy ủy quyền cho ông Lê Lành tham gia tố tụng trong vụ án. Giấy ủy quyền do phòng công chứng số 4 chứng thực ngày 20/10/2011 và ngày  04/9/2012.là hợp lệ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Nhàn ủy quyền cho ông Lê Lành, giấy ủy quyền do phòng công chứng số 4 chứng thực ngày  04/9/2012 là hợp lệ.
Bị đơn, lập Giấy ủy quyền cho ông Lý Đông Châu tham gia tố tụng trong vụ án, Giấy ủy quyền do phòng công chứng số 4 chứng thực ngày 21/11/2011là hợp lệ.
Trong quá trình tham gia tố tụng các bên đương sự đưa ra các chứng cứ và các lý lẽ để cho rằng bức tường giữa hai nhà 947/77 và 947/75 thuộc quyền sở hữu của mình, chẳng hạn như :
Phía đại diện nguyên đơn đưa ra chứng cứ có cơ sở pháp lý là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH00464 ngày 22/4/2011 thì toàn bộ các vách tường của nhà ông Ấn đều được thể hiện bằng ký hiệu kỹ thuật họa đồ là mũi tên hướng vào trong với ý nghĩa là tường riêng của nhà ông Ấn và các chứng cứ có giá trị tham khảo để chứng minh bức tường giữa hai nhà 947/77 và 947/75 Lạc Long Quân là bức tường riêng của nhà 947/77 gồm : Văn tự bán nhà của ông Huỳnh Ngọc Hoàng, Trần Thị Phú bán cho ông Trần Trọng Hòa bà Giang Lý Khanh năm 1992 đến năm 2007 ông Hòa bà Khanh bán lại cho ông Hoàng bà Phú, năm 2011 ông Hoàng bà Phú bán lại cho ông Phạm Trường Ấn,  trong đó đã ghi rõ: loại nhà cấp II, cấp III, gồm một trệt, một lầu…, điều này chứng tỏ nhà đã được xây kiên cố ít nhất là từ năm 1992, đã có kết cấu cột, đà, sàn bê tông cốt thép, Giấy thỏa thuận xác định ranh giới nhà đất năm 1999 có xác nhận của các nhà tiếp giáp xung quanh: nhà 947/77 có vách tường riêng trong đó có ông Lê Đức Anh là chủ cũ đã bán nhà 947/75 cho ông Long có ký tên xác nhận.
Phía đại diện bị đơn do ông Châu đại diện theo ủy quyền của ông Võ Thành Long cho rằng:
Ông Long là chủ căn nhà số 947/75 (Số cũ 1031) Lạc Long Quân, phường 11, quận Tân Bình theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH00313 do UBND quận Tân Bình cấp ngày 12/11/2010.  Nguồn gốc căn nhà do ông Long mua lại của ông Lê Đức Anh. Các chứng từ sở hữu hoặc các bản vẽ từ trước đến nay đều thể hiện căn nhà trên có tường riêng. Tuy nhiên chủ sở hữu căn nhà liền kề nhà của ông Long là nhà số 947/77 của ông Phạm Trường Ấn lại cố tình sử dụng bức tường này mà chưa được sự đồng ý của ông Long. Bởi vì ông Phạm Trường Ấn cũng cho rằng bức tường trên thuộc quyền sở hữu của nhà ông ta.
Ngoài ý kiến của hai bên đương sự, để có cơ sở xem xét giải quyết vụ án môt cách khách quan, Tòa án đề nghị hai bên chọn cơ quan tổ chức giám định bức tường giữa hai nhà và định giá bức tường này. Hai bên đồng ý Tòa án chọn Công ty cổ phần thẩm định giá E XIM tiến hành giám định, theo kết luận tại Chứng thư giám định ngày 24/8/2012 thì:
Bức tường giáp giữa hai nhà 947/77 và 947/75 Lạc Long Quân, phường 11, Tân Bình,TpHCM là bức tường riêng nằm trên hệ kết cấu của nhà 947/77 Lạc Long Quân, phường 11, Tân Bình.
Giá trị bức tường tranh chấp có diện tích 92m2 ước tính tại thời điểm tháng 8/2012 là 49.222.000 đồng (Bốn mươi chín triệu, hai trăm hai hai nghìn đồng).
Sau khi có kết luận giám định của cơ quan giám định nêu trên, Tòa án giao kết luận giám định cho các bên đương sự và tiến hành hòa giải, tại phiên hòa giải ngày 07/9/2012: đại diện phía nguyên đơn thống nhất với kết quả kiểm định theo chứng thư giám định số SG012-12/EXIMA – GĐ do Công ty CP Thẩm Định Giá E Xim lập ngày 24/8/2012 và vẫn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu như đã trình bày tại các Biên bản hòa giải ngày 09/01/2012 và ngày 14/7/2012 lập tại TAND quận Tân Bình là khẳng định bức tường giữa hai nhà 947/77 và 947/75 Lạc Long Quân là bức tường riêng của nhà 947/77;
Đại diện phía bị đơn cho rằng đối với kết quả kiểm định theo chứng thư giám định số SG012-12/EXIMA – GĐ do Công ty CP Thẩm Định Giá E Xim lập thì bị đơn không thống nhất với kết quả giám định, vì ngày 27/7/2012 khi công ty kiểm định thực hiện việc giám định tại hiện trường, sau khi hoàn tất việc đào hố móng số 1 theo đúng nội dung các bên đã thỏa thuận được ghi nhận tại biên bản làm việc ngày 24/7/2012 tại TAND quận Tân Bình, phía bị đơn đã đề xuất kiểm tra thêm bằng hình thức khoan nhiều lỗ  theo chiều dọc bức tường để làm cơ sở xác định thêm vị trí kiểm tra móng từ đó có thể xác định bức tường là tường chung hoặc tường riêng giữa hai nhà nhưng phía công ty kiểm định đã không thực hiện theo yêu cầu của bị đơn. 
Về nội dung vụ kiện, bị đơn vẫn giữa nguyên ý kiến như đã trình bày tại các Biên bản hòa giải ngày 09/01/2012 và ngày 14/7/2012 là khẳng định bức tường giữa hai nhà 947/77 và 947/75 Lạc Long Quân là bức tường riêng của nhà 947/75.
Ngoài ra do chi phí kiểm định công ty cổ phần thẩm định giá E xim đưa ra là chưa cạnh tranh, nên bị đơn đề nghị chọn thêm đơn vị khác thực hiện việc kiểm định để có mức giá cạnh tranh hơn.
Hội đồng xét xử xét thấy :
Trước khi tiến hành việc thực hiện giám định tại hiện trường, Tòa án đã làm việc với hai bên đương sự, theo biên bản làm việc ngày 24/7/2012, trong biên bản này nội dung chính là xác định các vị trí đào hố kiểm tra kết cấu bên dưới nền đất theo bản vẽ phát thảo do công ty cổ phần thẩm định giá E xim lập, đã cùng với ông Lành, ông Châu, và đại diên bên giám định lập biên bản số 1207 ngày 12/7/2012. Phía ông Ấn thống nhất với các vị trí hố đào, phía ông Châu chỉ không đồng ý trình tự thực hiện việc đào đối với vị trí dự phòng theo bản vẽ phát thảo, ngoài ra ông Châu không có ý kiến gì khác.
Ngày 27/7/2012 khi thực hiện giám định tại hiện trường có sự chứng kiến của ông Châu, ông Lành, đại diện tổ dân phố và chính quyền địa phương ; tổ giám định ghi nhận một số tình tiết là bức tường giữa hai nhà là tường riêng của nhà 947/77 thì ông Châu đưa ra thêm yêu cầu thực hiện công việc giám định, xét thấy yêu cầu này của ông Châu không đúng với nội dung biên bản làm việc ngày 12/7/2012 về việc thống nhất hạn mục giám định tại hiện trường và yêu cầu của ông Châu không làm thay đổi hoặc bổ sung kết luận giám định nên tổ giám định không thực hiện do vậy ông Châu bỏ đi không ký vào Biên bản giám định tại hiện trường, nay ông Châu cho rằng tại hiện trường khi thưc hiện việc giám định ông đề nghị khoan thêm 08 vị trí khoan trên tường để kiểm tra thêm bằng hình thức khoan nhiều lỗ  theo chiều dọc bức tường để làm cơ sở xác định thêm vị trí kiểm tra móng từ đó có thể xác định bức tường là tường chung hoặc tường riêng giữa hai nhà nhưng phía Công ty kiểm định đã không thực hiện theo yêu cầu của ông nên ông không thống nhất với kết quả giám định là không có căn cứ.  
 Mặt khác ngày 08/6/2012 Tòa án đã tống đạt Đề cương giám định do công ty cổ phần thẩm định giá E xim lập ngày 30/5/2012 cho ông Châu, tại Đề cương đã ghi rõ chi phí giám định là 44.000.000 đồng, kể từ ngày nhận được Đề cương ông Châu không thắc mắc về chi phí giám định, nay có ý kiến chọn đơn vị khác để tổ chức lại giám định vì chi phí giám định phải được cạnh tranh là không hợp lẽ.
Từ những nhận định của Hội đồng xét xử nêu trên và từ các chứng từ pháp lý là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH00464 ngày 22/4/2011;  Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH00313 do UBND quận Tân Bình cấp ngày 12/11/2010 của đại diện nguyên đơn, của đại diện bị đơn xuất trình cùng các chứng từ có giá trị tham khảo khác có tại hồ sơ và căn cứ vào chứng thư giám định số SG012-12/EXIMA – GĐ do Công ty CP Thẩm Định Giá E Xim lập ngày 24/8/2012 có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bức tường giữa hai nhà 947/77 và 947/75 Lạc Long Quân là bức tường riêng của nhà 947/77 Lạc Long Quân, phường 11, Tân Bình.
Về chi phí giám định:
Căn cứ Đề cương giám định do Công ty CP Thẩm Định Giá E Xim lập ngày 30/5/2012 Tòa án đã tống đạt cho hai bên đương sự ngày 08/6/2012 và căn cứ Hóa đơn GTGT 0000208 do Công ty CP Thẩm Định Giá E Xim thu tiền ngày 28/6/2012 thì chi phí giám định là 44.000.000 đồng và do kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người yêu cầu trưng cầu giám định là có căn cứ nên phía ông Long phải chịu toàn bộ chi phí giám định này theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi, bổ sung năm 2011.
Căn cứ Chứng thư giám định số SG012-12/EXIMA – GĐ do Công ty CP Thẩm Định Giá E Xim lập ngày 24/8/2012 thì bức tường tranh chấp giữa hai nhà có trị giá là 49.222.000 đồng, do vậy việc tính án phí Hội đồng xét xử sẽ căn cứ khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án; và căn cứ điểm a mục 2 phần I, Danh mục mức án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/2009.
Về án phí dân sự sơ thẩm :
Do yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên phía bị đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo qui định tại khoản 1 điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự và căn cứ khoản 2 điều 27 pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.
Bởi các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 25; điểm a khoản 1 Điều 33; điểm c khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều  131, khoản 2 Điều 138 và Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2011.
Căn cứ điều 255 Luật dân sự năm 2005.
Căn cứ khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án; và căn cứ điểm a mục 2 phần I, Danh mục mức án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/2009.
Căn cứ điểm b, mục 3 công văn số 99/TANDTC – KHXX ngày 01/7/2009 của Tóa An Nhân Dân Tối Cao V/v thi hành một số quy định của các văn bản quy phạm pháp luật.
TUYÊN XỬ:
1.      Chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Trường Ấn và bà Phạm Thị Nhàn
Công nhận bức tường giáp giữa hai nhà 947/77 và  947/75 Lạc Long Quân, phường 11, Tân Bình, Tp Hồ Chí Minh là tường riêng của nhà 947/77 Lạc Long Quân do ông Phạm Trường Ấn và bà Phạm Thị Nhàn chủ sở hữu.
2.      Buộc ông Võ Thành Long phải hoàn trả lại cho Phạm Trường Ấn số tiền chi phí giám định là 44.000.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu đồng) ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Địa điểm thi hành: tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
3. Án phí DSST là 2.461.100 đồng (Hai triệu, bốn trăm sáu mươi mốt  nghìn một trăm đồng) ông Võ Thành Long phải nộp tại Thi hành án dân sự quận Tân Bình. Hoàn lại số tiền tạm ứng án phí cho ông Ấn đã nộp là 1.250.000 đồng (Một triệu, hai trăm năm chục nghìn đồng) theo biên lai thu số AB/2010/07332 ngày 14/10/2011 của Thi hành án dân sự quận Tân Bình.
4. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt các đương sự, các đương sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp được quyền kháng nghị bản án theo điều 250, 252 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án, quyết định  được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.