Tranh chấp một phần thửa đất - bản án
Thứ hai - 06/03/2017 21:23
Ngày 22 tháng 8 năm 2011 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 143/2010/TLST-DS ngày 23 tháng 6 năm 2010, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2011/QĐST-XX-DS ngày 10 tháng 8 năm 2011. Giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Quách Muối, sinh năm 1932; trú tại: 27/8 Nguyễn Văn Săng, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú; ủy quyền cho bà Quách Ngọc Liên, sinh năm 1957; trú tại: 2/23 Âu Cơ, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú (Có mặt);
- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: ông Vũ Thanh Quy là luật sư của Văn phòng luật sư Thanh Quy, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ: 08 đường số 18, phường 11, quận Gò Vấp (Có mặt);
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hà, sinh năm 1959; trú tại: 47/7/5 Nguyễn Văn Săng, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú (Có mặt);
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Quách Hùng Cường, sinh năm 1979; trú tại: 85/17 Nguyễn Phi Khanh, phường Tân Định, quận 1 (Có đơn xin vắng mặt);
NHẬN THẤY
Theo đơn khởi kiện ngày 07/6/2010 và bản tự khai ngày 06/7/2010 do bà Quách Ngọc Liên đại diện nguyên đơn trình bày thì: Vào năm 2001 bà Quách Muối có bán cho ông Quách Hùng Cường một nền nhà ngang 4m x dài 20m, tổng diện tích là 80m2. Sau đó ông Cường bán lại miếng đất trên cho bà Nguyễn Thị Hà. Bà Hà đã xây dựng nhà trên diện tích 4mx21m, vượt hơn là 4m2.
Bà Muối yêu cầu nếu bà Hà sử dụng luôn phần đất 4m2 trên thì phải trả thêm số tiền 60.000.000 đồng, nếu không thì phải hoàn trả lại diện tích đất là 4m2.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Hà trình bày: Năm 2001 bà có mua một miếng đất diện tích 84m2 (4mx21m) của ông Quách Hùng Cường, khi làm giấy mua bán ông Cường có đề nghị để tên bà Muối trực tiếp trên giấy mua bán để tiện cho việc hợp thức hóa sau này. Giấy tay mua bán đứng bà Hà và bà Muối là do ông Cường đưa cho bà Muối ký tên, trong giấy mua bán đã ghi rõ diện tích là 84m2. Đến năm 2003 bà Hà xây nhà trên đất này, đến năm 2007 thì tiến hành hợp thức hóa và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, bà sinh sống sinh sống ổn định từ đó cho đến nay. Hiện nay căn nhà mang số 35/23 Nguyễn Văn Săng, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú.
Bà Hà không đồng ý yêu cầu của bà Muối.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Quách Hùng Cường trình bày: Tháng 3/2001 bà Quách Muối có bán cho ông một nền nhà ngang 4m, dài 20m, tổng diện tích là 80m2, việc mua bán có làm hợp đồng tay có chữ ký của bà Muối và các con. Sau đó bà Muối có kêu bán thêm cho ông 1mx4m đất ở phía sau lô đất đã mua, ông đồng ý mua và có làm giấy mua bán riêng phần này (hiện ông không còn lưu giữ). Đến tháng 11/2001 ông bán lại toàn bộ phần đất đã mua 84m2 cho bà Hà, để tiện việc làm hợp thức hóa ông có đề nghị bà Muối ký hợp đồng mua bán thẳng với bà Hà và ông đã trực tiếp mang hợp đồng qua nhà để bà Muối ký tên, khi đó có con của bà Muối là bà Quách Ngọc Liên đọc lại, trong hợp đồng này có ghi rõ diện tích mua bán là 84m2.
Toà án nhân dân quận Tân Phú đã tiến hành hòa giải các bên đương sự nhưng không thành nên đưa vụ án ra xét xử.
Ông Quách Hùng Cường có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 1 Điều 202 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân quận Tân Phú tiến hành xét xử vắng mặt ông Cường;
Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn và bị đơn vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu của mình như đã trình bày;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị xem xét quá trình thỏa thuận chuyển nhượng đất giữa bị đơn và ông Quách Hùng Cường nhưng lại ký tên bán là bà Quách Muối là giả mạo. Việc kê khai đăng ký quyền sử dụng đất của bị đơn là có vi phạm vì kê khai không đúng sự thật về giao dịch mua bán. Đề nghị chấp nhận yêu cầu của phía nguyên đơn.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về quyền khởi kiện, quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ đơn khởi kiện của bà Quách Muối về tranh chấp quyền sử dụng đất tọa lạc tại quận Tân Phú nên Tòa án nhân dân quận Tân Phú thụ lý giải quyết là phù hợp theo quy định tại các Điều 4; khoản 3 Điều 25; khoản 1 Điều 33; khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003.
* Về tư cách tham gia tố tụng của các đương sự: Căn cứ Điều 56; khoản 3 Điều 73; Điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự thì:
Bà Quách Muối tham gia tố tụng là nguyên đơn; do bà Quách Ngọc Liên là đại diện ủy quyền (giấy ủy quyền ngày 10/6/2010 chứng nhận tại Văn phòng Công chứng Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh);
Bà Nguyễn Thị Hà tham gia tố tụng là bị đơn;
Ông Quách Hùng Cường tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
* Về nội dung:
Nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu trả lại phần đất có diện tích 1m x 4m thuộc căn nhà số 35/23 Nguyễn Văn Săng, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú mà phía bị đơn đang sử dụng vì cho rằng đây là phần đất của mình được thừa hưởng do cha mẹ để lại. Theo sự xác nhận của nguyên đơn và biên bản định giá ngày 14/01/2011 thì phần đất mà nguyên đơn tranh chấp có diện tích chiều sâu 1m x ngang 4m, vị trí phía đuôi nhà số 35/23 Nguyễn Văn Săng, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú. Phần đất này nằm trong diện tích khuôn viên đất 84m2 theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 2209/2007/UB-GCN do Ủy ban nhân dân quận Tân Phú cấp ngày 07/5/2007 cho bà Nguyễn Thị Hà; Giá trị chuyển nhượng của phần diện tích đất tranh chấp này là 64.000.000 đồng.
Chứng cứ do nguyên đơn xuất trình: Quyết định số 505/QĐ-ĐC-TTr ngày 19/7/1996 của Sở địa chính thành phố Hồ Chí Minh về việc giải quyết khiếu nại của bà Quách Muối; biên bản họp gia tộc ngày 05/8/1996 về việc tương phân đất vườn do cha mẹ để lại; đơn xin sử dụng đất xây dựng của bà Quách Muối ngày 01/3/1997.
Hội đồng xét xử nhận định: Theo các chứng cứ do nguyên đơn xuất trình và lời trình bày tại phiên tòa thể hiện nguyên đơn được thừa hưởng một phần đất có diện tích là 688m2 thuộc thửa đất có diện tích 2.068m2 số địa bộ 248, số bản đồ 212 tờ 2 xã Tân Sơn Nhì có nguồn gốc do cha mẹ để lại. Căn cứ quy định tại Điều 13 Luật số 10/1998/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999 thì: “Việc thực hiện các quyền của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được quy định tại các điều 78a, 78b, 78c và 78d của Luật này phải được làm thủ tục tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật." và quy định tại khoản 2 Điều 107 Luật đất đai 2003 thì : “ Người sử dụng đất có các nghĩa vụ chung sau đây: …2. Đăng ký quyền sử dụng đất, làm đầy đủ thủ tục khi chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, …”. Như vậy quyền sử dụng đất có nguồn gốc do thừa kế chỉ được công nhận khi đã thực hiện việc đăng ký kê khai và được cơ quan có thẩm quyền nhà nước cấp giấy chứng nhận. Việc nguyên đơn không xuất trình được chứng cứ cho thấy đã thực hiện các thủ tục theo quy định pháp luật nên chưa có quyền sử dụng hợp pháp đối với phần đất này.
Việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại phần đất có diện tích 1m x 4m nhưng không được bị đơn chấp nhận và cũng không chứng minh được quyền sử dụng hợp pháp đối với phần đất tranh chấp. Đồng thời căn cứ công văn số 796/UBND-KNTC ngày 12/7/2011 của Ủy ban nhân dân quận Tân Phú có nội dung xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 2209/UB-GCN của Ủy ban nhân dân quận Tân Phú cho bà Nguyễn Thị Hà đối với nhà đất tại số 35/23 Nguyễn Văn Săng là đúng quy định. Như vậy việc bị đơn sử dụng toàn bộ khuôn viên đất có diện tích 84m2 theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 2209/UB-GCN cấp ngày 07/5/2007 là đúng quy định pháp luật, yêu cầu của nguyên đơn là không có cơ sở, nên không được chấp nhận.
* Về án phí:
Do nguyên đơn không được chấp nhận yêu cầu nên phải chịu án phí theo giá trị phần diện tích đất tranh chấp là 64.000.000 đồng. Cụ thể số tiền án phí nguyên đơn phải chịu là 3.200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng:
- Điều 4, khoản 7 Điều 25, điểm a khoản 1 Điều 33, điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003;
- Khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu của bà Quách Muối đòi phần đất có diện tích 1m x 4m nằm trong khuôn viên đất có diện tích 84m2 theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 2209/UB-GCN cấp ngày 07/5/2007 hiện do bà Nguyễn Thị Hà quản lý sử dụng.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Số tiền 3.200.000 đồng, do bà Muối chịu. Sau khi trừ vào tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 000963 ngày 23/6/2010 của Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Phú, bà Muối còn phải nộp thêm số tiền là 1.700.000 đồng.
Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Phú.
3. Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Cường vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Chúng tôi trên mạng xã hội