Câu hỏi:
Bố mẹ chồng tôi sinh được ba người con trai. Khi bố mẹ chồng tôi còn sống đã chia đất cho các con (từ năm 1950). Chồng tôi là con thứ hai nên được thửa đất nằm ở giữa liền với cái ao có diện tích 436m2 rộng hơn hai thửa đất còn lại. Phía bên trái là phần đất của anh cả, phía bên phải là của chú út. Còn phần dưới thửa đất thì không giáp nhà ai mà giáp đường làng. Hiện nay diện tích đất này chưa được cấp sổ đỏ, năm 1986 chồng tôi được đứng tên trong sổ địa chính. Từ năm 1994 khi chồng tôi chết thì do tôi đứng tên. Chúng tôi có sáu người con. Năm 2003 Nhà nước mở đường quốc lộ 1A lấy vào phần đất nhà tôi. Do kê khai không rõ ràng nên chú út cũng được Nhà nước bồi thường ở chỗ này. Nhân thể việc này hai người con của chú út đã chiếm luôn 40m2 đất của nhà tôi. Tôi muốn khởi kiện chú út để đòi đất (trên đất không có tài sản gì của vợ chồng tôi mà chỉ có 2 cái quán do con của chú út xây dựng) thì phải làm những thủ tục gì để được Toà án thụ lý giải quyết?
Trả lời:
Căn cứ tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “nếu trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, diện tích đất (40m
2) mà chú út chiếm thuộc thửa đất mà chồng bà được bố mẹ chia cho, tuy chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có tên trong sổ địa chính thuộc di sản thừa kế của chồng bà. Diện tích nhà đất này là tài sản chung vợ chồng của chồng bà và bà. Năm 1994 khi chồng bà chết thì một nửa khối tài sản là của bà, còn một nửa khối tài sản là di sản thừa kế chưa chia của bà và sáu người con là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất đối với phần di sản của chồng bà theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự
(1). Vì diện tích nhà đất hiện nay do bà quản lý và đứng tên trong bản đồ địa chính do đó là tài sản thuộc sở hữu chung của bà cùng các con. Theo dữ kiện bà nêu thì các con của chú út đã tự ý chiếm 40m
2 đất trong khối tài sản chung này sử dụng trái phép lợi dụng việc kê khai để được bồi thường khi nhà nước mở đường tại khu vực này. Nếu bà khẳng định 40m
2 đất này thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình bà thì bà có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân để đòi lại theo quy định tại điểm b tiểu mục 2.4 mục 1 phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Cụ thể: không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong “Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm giữ bất hợp pháp thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản”. Do đó, bà cùng sáu người con có quyền khởi kiện đòi lại tài sản sở hữu chung.
Theo dữ kiện bà nêu từ năm 1994 bà đã được đứng tên trong sổ địa chính của xã nên cũng được coi là người sử dụng đất có giấy tờ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai quy định việc hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định được Uỷ ban nhân dân xã phường thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ là: “có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính” thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
Do đó bà cũng có quyền đứng đơn khởi kiện đòi tài sản là quyền sử dụng 40m
2 đất đối với hai người con của chú út.
--------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.Căn cứ tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “nếu trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, diện tích đất (40m
2) mà chú út chiếm thuộc thửa đất mà chồng bà được bố mẹ chia cho, tuy chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có tên trong sổ địa chính thuộc di sản thừa kế của chồng bà. Diện tích nhà đất này là tài sản chung vợ chồng của chồng bà và bà. Năm 1994 khi chồng bà chết thì một nửa khối tài sản là của bà, còn một nửa khối tài sản là di sản thừa kế chưa chia của bà và sáu người con là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất đối với phần di sản của chồng bà theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự
(1). Vì diện tích nhà đất hiện nay do bà quản lý và đứng tên trong bản đồ địa chính do đó là tài sản thuộc sở hữu chung của bà cùng các con. Theo dữ kiện bà nêu thì các con của chú út đã tự ý chiếm 40m
2 đất trong khối tài sản chung này sử dụng trái phép lợi dụng việc kê khai để được bồi thường khi nhà nước mở đường tại khu vực này. Nếu bà khẳng định 40m
2 đất này thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình bà thì bà có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân để đòi lại theo quy định tại điểm b tiểu mục 2.4 mục 1 phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Cụ thể: không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong “Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm giữ bất hợp pháp thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản”. Do đó, bà cùng sáu người con có quyền khởi kiện đòi lại tài sản sở hữu chung.
Theo dữ kiện bà nêu từ năm 1994 bà đã được đứng tên trong sổ địa chính của xã nên cũng được coi là người sử dụng đất có giấy tờ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai quy định việc hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định được Uỷ ban nhân dân xã phường thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ là: “có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính” thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
Do đó bà cũng có quyền đứng đơn khởi kiện đòi tài sản là quyền sử dụng 40m
2 đất đối với hai người con của chú út.
--------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Chúng tôi trên mạng xã hội