Tranh chấp hợp đồng đặt cọc ?

Câu hỏi:
Chào luật sư, tôi gửi email này mong luật sư tư vấn giúp. *Ông Ngoại tôi có nhận đặt cọc bán nhà là 20 cây vàng cho giá bán là 220 cây vàng 9999,để dành đặt cọc cho việc bán nhà - sau khi có thể hợp thức hoá căn nhà của Ông tôi . Giấy nhận cọc gồm 2 vợ chồng bên mua và Ông Ngoại tôi được ký vào tháng 11 Năm 2001. ( cách đây 11 Năm, không có người làm chứng). Đến Năm 2009 căn nhà nói trên đã được hợp thức hoá thì Ông tôi đã mất trước đó vài Năm rồi, người mua nhà lại nói muốn mua thì Mẹ tôi muốn bán với giá cũ cộng thêm 800 triệu tiền làm giấy tờ và các chi phí phát sinh. ( căn nhà trên trước đây thuộc diện 2/4 nhà Nước quản lý). Người mua không chịu với số tiền phát sinh trên và dùng dằng mãi ko mua, có ý đòi cọc lại. Đến ngày 18/3/2011 , Mẹ tôi có đến Ủy ban nhân dân phường để ký biên bản Hoà giải vì người mua gửi đơn lên. Người mua nói ko chịu mua vì giá vàng giờ đã khác, chỉ muốn nhận cọc lại và muốn được bồi thường, do sức khoẻ Mẹ tôi không tốt Cộng thêm đây là chuyện của Ngoại tôi nên Mẹ tôi đã ký đồng ý trả cho người mua 20 cây vàng đã đặt cọc, đồng thời Cộng thêm 5 cây vàng coi như đền bồi thời gian 10 Năm. Nhưng đến lúc bán được nhà thì mới trả. (1 mình Mẹ tôi ký trong khi còn thêm 2 thừa kế nữa). Cuối Năm rồi Mẹ tôi mất, tôi làm một trong 3 người được thừa kế căn nhà trên , đồng thừa kế có thêm 2 đứa em con của Cậu tôi đã mất. Tôi được thừa hưởng 2/4 giá trị căn nhà trên. Nay người mua lại tiếp tục gửi đơn lên toà án quận về việc muốn Mẹ tôi thực hiện bản Hoà giải 25 cây vàng dù nhà tôi vẫn chưa bán được. Tôi xin hỏi liệu tôi và các thành viên trong gia đình có phải trả 25 cây vàng trên không? Tôi vẫn muốn bán cho người mua cũ với giá trị 220 cây vàng ( ông Ngoại đã nhận 20 cây). Vì vậy chỉ còn lại 200 cây vàng. Vậy tôi có thực hiện được tiếp hợp đồng mua bán này ko? Trên giấy mua bán chỉ nói là sẽ giao nhận vàng và nhà khi giấy tờ nhà xong mà không đề cập đến thời hạn của hợp đồng. Tôi muốn đến toà án để cho ý kiến này đồng thời không muốn day dưa, tôi sẽ cho thời hạn người mua có thực hiện mua nữa hay không trong vòng 30 ngày, nếu không sẽ mất cọc và tôi có quyền rao bán căn nhà trên tự do cho người khác,tôi làm vậy có sai quy định nào ko? Kính mong các Anh chị luật sư xem xét trường hợp của tôi và trả lời email cho tôi được rõ. Vì câu chuyện của tôi còn liên quan đến Người Ông và Người Mẹ đã khuất của tôi. Chân thành cảm tạ các anh chị . Chúc mọi người an vui và khoẻ mạnh.Kính thư
Trả lời:
Chào anh! Vấn đề của anh chúng tôi xin tư vấn như sau:
 
Hợp đồng mua bán nhà của ông Ngoại bạn và người mua được hình thành trừ trước ngày 1/7/2004, và chỉ là giấy viết tay, không công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật. Khi có tảnh chấp, Tòa án chỉ công nhận hợp đồng này có hiệu lực khi đáp ứng đủ điều kiện theo điểm a tiểu mục 2.3  mục 2 tại Nghị quyết 02/2004 NQ/HĐTP
Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;
a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;
a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;
a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;
a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;
a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
Ở đây, hợp đồng của ông Ngoại bạn và người mua đã vi phạm về hình thức của hợp đồng tại điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này
Theo quy định tại điểm b.2 tiểu mục b mục 2 của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP: “Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này”.
Tuy nhiên, hiện tại giao dịch của ông Ngoại bạn vẫn chưa được hoàn tất thủ tục sang tên tại UBND để được cấp giấy chứng nhận. Vì vậy, hợp đồng này giữa ông bạn và người mua được xem là vô hiệu. Bạn có thể tham khảo thêm tiểu mục c mục 2 của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP để hiểu thêm  về việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
Thân!

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây