Đã được tặng cho tài sản có quyền yêu cầu chia thừa kế không ?

Câu hỏi:
Bố mẹ tôi có 879m2 đất thổ cư tại xã Liên Ninh, Thanh Trì, Hà Nội và có tám người con. Khi bố tôi còn sống đã chia cho hai người con là tôi và anh C hai mảnh đất trong tổng diện tích đó (vào năm 1983 và 1991) còn những người con khác thì không được chia vì chưa xây dựng gia đình. Năm 1996 bố tôi mất không để lại di chúc, mẹ tôi là người sử dụng và đóng thuế từ đó cho đến nay. Năm 2003 mẹ tôi chia diện tích đất còn lại cho 3 người con trai chưa được chia (còn tôi, anh C và ba người con gái đã đi lấy chồng không được chia nữa). Nhưng anh C muốn được chia thêm một phần nữa nhưng mẹ tôi không đồng ý. Hỏi anh C đã được chia đất (149m2) khi bố còn sống thì có quyền đòi chia thừa kế và hưởng thêm đất nữa không?
Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Đối với diện tích đất mà bố mẹ ông đã cho ông C khi bố ông còn sống: Theo quy định điều 1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 thì: " Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong...tặng cho tài sản".
Vì diện tích đất 879 m2 là tài sản của bố mẹ ông nên vào các năm 1983 và 1991 bố mẹ ông đã thực hiện quyền định đoạt bằng cách chia cho hai người con (là ông và ông C) mỗi người một mảnh đất trong tổng số diện tích này khi xây dựng gia đình là phù hợp với quy định của pháp luật về đất đai vào thời điểm đó bởi vì Luật đất đai năm 1987 chỉ nghiêm cấm người sử dụng đất "mua bán đất đai ...dưới mọi hình thức" (điều 5) chứ không nghiêm cấm việc bố mẹ chia đất cho con để xây nhà và sử dụng.
Vì bố ông mất không để lại di chúc nên việc chia thừa kế sẽ theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) quy định về hàng thừa kế thứ nhất như sau: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” cho nên mẹ ông và tám người con (trong đó có cả ông và ông C) sẽ được chia thừa kế của bố. Như vậy là ông C cũng có quyền yêu cầu chia thừa kế (đối với phần di sản của bố ông).
- Căn cứ dữ kiện ông nêu thì mẹ ông không muốn chia thêm đất cho ông C (vì ông C đã được chia 149m2 khi bố ông còn sống) mà mẹ ông chỉ định chia đất cho những con chưa được bố mẹ cho đất. Việc ông C có được hưởng thêm đất nữa không phụ thuộc vào kỷ phần thừa kế mà mỗi người thừa kế được hưởng.
Có hai trường hợp xảy ra:
- Trường hợp 1: Căn cứ khoản 1 điều 18 Luật đai năm 1987(2) quy định nghĩa vụ của người đang sử dụng đất hợp pháp : "..phải xin đăng ký đất đai tại Cơ quan nhà nước nói ở khoản 2 điều này (là Uỷ ban nhân dân quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn và Uỷ ban nhân dân xã thuộc huyện)". Nếu như ông C sau khi được bố mẹ chia đất đã xây dựng nhà ở và đã thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và được đứng tên trong bản đồ địa chính thì được coi là người sử dụng đất (đối với diện tích 149m2). Căn cứ điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003(3) quy định một trong những loại giấy tờ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là người sử dụng đất " có tên trong sổ địa chính". Thì ông C vẫn có quyền yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản của bố ông theo quy định của pháp luật (trường hợp bố ông mất đi không để lại di chúc) vì theo quy định tại điều 635 Bộ luật dân sự năm 1995(4)  "Mọi cá nhân đều bình đẳng về..quyền hưởng di sản...theo pháp luật".
Trong trường hợp này phần diện tích đất mà ông C được bố mẹ chia khi bố đang còn sống không được tính vào khối tài sản chung.
- Trường hợp 2: Còn nếu ông C chưa thực hiện nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và chưa được đứng tên trong bản đồ địa chính, nay mẹ ông không thừa nhận việc cho đất trước kia thì ông C chưa phải là người sử dụng đất hợp pháp (đối với diện tích 149m2) theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên ông C vẫn có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế của bố theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này phần diện tích mà ông C đang quản lý được tính chung vào khối tài sản chung để chia.
Việc chia khối tài sản chung trong cả hai trường hợp như sau:
-  Căn cứ điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959(5) thì mẹ ông được quyền sở hữu đối với một nửa khối tài sản. Do đó khối tài sản chung được chia đôi và mẹ ông được hưởng 419m2 đất (nếu thuộc trường hợp 2).
- Căn cứ khoản 2 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(6) thì một nửa khối tài sản của bố ông (là quyền sử dụng 439,5m2) được chia thành các phần bằng nhau cho những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất. Theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (7)thì những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: "Vợ, chồng, ...con đẻ của người chết". Do đó phần của bố ông về nguyên tắc sẽ được chia thành 9 phần bằng nhau (cụ thể là cho cả mẹ ông và 8 người con trong đó có 3 người con gái đã đi lấy chồng). Mỗi người sẽ được hưởng kỷ phần là 48,83m2 (nếu thuộc truờng hợp 2). Căn cứ dữ kiện ông nêu thì ông C đã được chia 149m2 là nhiều hơn kỷ phần thừa kế mà ông C được hưởng nên ông C phải có trách nhiệm thanh toán lại cho những người thừa kế khác để bảo đảm cho họ được hưởng đủ với kỷ phần mà họ được hưởng theo pháp luật.
Còn nếu thuộc trường hợp 1 thì khối tài sản chung của bố mẹ được xác định là 730m2 và phần di sản thừa kế của bố ông là 365m2. Như vậy mỗi kỷ phần thừa kế sẽ là 40,55m2. Đây cũng là số đất mà ông C được hưởng thêm.
------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 1 điều 18 Luật đất đai năm 1987 quy định: "Khi được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho phép chuyển quyền sử dụng, thay đổi mục đích sử dụng hạơc đang sử dụng đất hợp pháp mà chưa đăng ký thì người sử dụng phải xin đăng ký đất đai tại cơ quan nhà nước nói tại khoản 2 điều này"
(3) Điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: "1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban Nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
b. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;"
 (4) Điều 632 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền đẻ lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật".
 (5) Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: "Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới".
(6) Khoản 2 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(7) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005..

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây