Được thừa kế khi đang xin ly hôn ?

Câu hỏi:
Mẹ chồng tôi có lập bản di chúc chia tài sản cho các con trong đó có chồng tôi. Bản di chúc này chỉ có chữ ký của các thành viên trong gia đình mà không có chứng nhận của phường cũng như công chứng. Tôi là con dâu nhưng trong di chúc phân chia tài sản không có tên tôi mặc dù vào thời điểm lập di chúc tôi đã trở thành thành viên trong gia đình. Hỏi bản di chúc đó có hợp pháp không? Khi chúng tôi ly hôn (xin lưu ý là ly hôn trong thời điểm mà người lập di chúc là mẹ chồng tôi vẫn chưa mất) thì tôi có được hưởng một nửa phần tài sản của chồng tôi đã được chia trong di chúc không? Trường hợp chúng tôi đang làm thủ tục xin ly hôn mà chồng tôi mất thì tôi có được hưởng thừa kế tài sản của chồng tôi không?
Trả lời:
Căn cứ Điều 201 Bộ luật dân sự(1) quy định quyền định đoạt của chủ sở hữu như sau: “Chủ sở sở hữu có quyền định đoạt tài sản của mình bằng các hình thức tặng cho,… để thừa kế hoặc định đoạt bằng các hình thức khác đối với tài sản của mình”. Có nghĩa là người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
Theo chị trình bày mặc dù khi lập di chúc chị đang là con dâu nhưng mẹ chồng chị chỉ lập di chúc cho các con (trong đó có chồng chị) mà không có tên chị là không trái với quy định của pháp luật. Việc mẹ chồng không chỉ định cho chị được hưởng thừa kế cũng không trái với quy định của pháp luật vì mẹ chồng chị có quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.
Căn cứ khoản 1, 4 Điều 655 Bộ luật dân sự(2) quy định về di chúc hợp pháp như sau:
“a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b. Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
4. Di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực như quy định tại Điều 660 của Bộ luật này(3) chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này”.
Như vậy, đối với bản di chúc do mẹ chồng chị lập, không có chứng nhận của phường hoặc của công chứng nhà nước, nếu đảm bảo các quy định nêu trên thì vẫn được coi là hợp pháp. Theo quy định tại Điều 660 Bộ luật dân sự thì việc công chứng và chứng thực di chúc chỉ thực hiện theo yêu cầu của người lập di chúc chứ không bắt buộc.
Theo dữ kiện chị nêu thì trong di chúc không chỉ định chị là người được hưởng di sản mà chỉ có chồng chị là có tên trong di chúc. Căn cứ khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 thì phần di sản mà chồng chị được hưởng theo di chúc sẽ là tài sản chung của vợ chồng chị theo thoả thuận của hai vợ chồng chị.
Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định: “… Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng có thoả thuận”. 
Tuy nhiên, căn cứ khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự(4) quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người lập di chúc chết: “Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế”. Hiện tại mẹ chồng chị vẫn còn sống nên di chúc của mẹ chồng chị chưa có hiệu lực và phần tài sản mà chồng chị được hưởng theo di chúc vẫn thuộc quyền sở hữu của mẹ chồng chị. Vì vậy, nếu vợ chồng chị ly hôn thì phần tài sản đó chưa phải là tài sản chung của vợ chồng chị nên không được chia trong vụ kiện ly hôn.
Trong trường hợp vợ chồng chị đang làm thủ tục xin ly hôn mà chồng chị mất thì căn cứ khoản 2 Điều 683 Bộ luật dân sự(5) quy định: “Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được Toà án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết, thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản”. Như vậy, chị vẫn có quyền thừa kế di sản của chồng chị bao gồm: tài sản riêng của chồng chị và phần tài sản của chồng chị trong khối tài sản chung với người khác (nếu có) vì quan hệ vợ chồng của chị chỉ chấm dứt bằng một bản án hoặc quyết định về giải quyết việc ly hôn có hiệu lực pháp luật của Toà án.
------------------------------------
(1) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(2) Khoản 1, 4 điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: 
"1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b. Nội dung của di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức của di chúc không trái với quy định của pháp luật.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 điều này".
(3) Điều 657 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc".
(4) Khoản 1 điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Khoản 2 điều 680 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Toà án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu 1 người chết thì người còn sống được thừa kế di sản".

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây