Hưởng di sản do bố để lại

Câu hỏi:
Bố mẹ tôi có một căn nhà, bố tôi vừa mất không để lại di chúc cũng là thời điểm xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Vì muốn hợp thức hoá căn nhà cho nhanh nên chúng tôi đã làm biên bản đồng ý để mẹ tôi đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Hỏi: hiện nay các con có được hưởng phần di sản của bố tôi do mẹ tôi đứng tên không?
Trả lời:
Căn cứ khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì diện tích nhà và đất nêu trên là tài sản chung hợp nhất của cha mẹ ông. Căn cứ khoản 1 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về định đoạt tài sản chung vợ chồng.
Khoản 1 điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất".
Khoản 1 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”. 
Khi bố ông mất đi không để lại di chúc nên tài sản này một nửa là của mẹ ông còn một nửa là di sản thừa kế của bố ông. Căn cứ khoản 1 Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng quy định: “Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế”. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) thì mẹ ông và các con là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần thừa kế bằng nhau. Như vậy, toàn bộ ngôi nhà này không phải của mẹ ông mà các anh em của ông cũng có phần.
Căn cứ Điều 645 Bộ luật dân sự(2) quy định về việc từ chối nhận di sản như sau: 
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải thông báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, Công chứng nhà nước hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế”.
Như vậy căn cứ dữ kiện ông nêu thì việc các anh em của ông làm biên bản để mẹ ông đứng tên toàn bộ ngôi nhà chỉ nhằm mục đích làm nhanh thủ tục cấp giấy chứng nhận chứ không phải là từ chối nhận di sản. Căn cứ điều 138 Bộ luật dân sự năm 1995 (3)quy định về giao dịch dân sự giả tạo như sau: " Khi các bên xác lập giao dịch dân sự 1 cách giả tạo nhằm che dấu 1 giao dịch khác, thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che dấu vẫn có hiệu lực pháp luật...". Theo quy định nêu trên thì tuy mẹ ông được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng tài sản này vẫn là tài sản chung của mẹ ông và các anh em ông. Có nghĩa là các anh em của ông vẫn có quyền lợi đối với phần di sản của bố trong ngôi nhà. Nếu các ông chứng minh được biên bản thoả thuận để mẹ ông đứng tên sở hữu nhà đất chỉ là giả tạo thì các anh em có yêu cầu chia đối với tài sản chung này. Có hai trường hợp xảy ra:
- Nếu còn thời hạn thừa kế (trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm bố mất) thì các anh em của ông có quyền yêu cầu toà án chia thừa kế theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(4).
- Nếu vào thời điểm yêu cầu toà án mà đã hết thời hạn mười năm thì các anh em của ông có quyền yêu cầu toà án chia khối tài sản này theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung nếu có các điều kiện quy định tại Điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán -toà án nhân dân tối cao: "giữa các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận trong ngôi nhà này có một phần là di sản thừa kế của bố nhưng chưa chia thì phần di sản đó sẽ trở thành tài sản chung của các thừa kế". Nếu thuộc trường hợp nêu trên thì Toà án không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.
Điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...”.
-----------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 642 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 quy định:
"1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận di sản thừa kế"
 (3) Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu".
(4) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Điều 664 Bộ luật dân sự năm 2005.

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây