Tư vấn luật nhà đất| Dịch vụ nhà đất

Bạn đang ở chuyên mục Hỏi đáp pháp luật trực tuyến. Đây là chuyên mục tư vấn trực tuyến miễn phí phục vụ cộng đồng. Các câu hỏi gửi qua chuyên mục sẽ được các luật sư biên tập và đăng tải trên website chúng tôi. Các câu hỏi trình bày không rõ ý, sai chính tả sẽ bị từ chối. Bạn sẽ nhận được câu trả lời trong khoảng từ 2-5 ngày. Nếu cần trả lời khẩn cấp, vui lòng gọi tổng đài tư vấn 1900 6279. Xin cảm ơn!
......................................................................................................................................


In ra
Lưu bài này

Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đã hết nhưng có quyền yêu cầu chia tài sản chung

Câu hỏi:
Ông bà nội tôi có để lại ngôi nhà hai tầng cùng gian nhà thờ trên diện tích đất 974m2 ở quận 5 với bằng khoán thời Pháp chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì thuộc diện giải toả. Số đất này đã chia cho các con ở Việt Nam. Bà cô của tôi sống độc thân, đến khi chết thì ngôi nhà và 300m2 đất đã bị phường lấy cấp cho người khác và người này đã cất lên nhà hai tầng. Có ông chú ở nước ngoài đã lâu, nghe tin về đòi tiếp thu các phần đất còn lại kể cả ngôi nhà thờ hiện nay do cô út đang trông nom. Hiện nay những người lớn tuổi đã chết gần hết, và cha tôi vừa mới mất. Hỏi chúng tôi có quyền gì đối với nhà đất này không? Chúng tôi có khiếu nại được không về việc phường lấy đất của cô tôi cho người khác không? Chú tôi ở nước ngoài có quyền đối với đất của cô út không?
Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì ông bà nội của ông đã chia nhà đất cho các con đang ở Việt Nam gồm: bố anh, bà cô độc thân được chia 300m2, cô út được chia một phần trên có nhà thờ, còn ông chú đi nước ngoài đã lâu nên không chia. Sau khi chia vẫn còn một phần đất chưa chia cho ai (gần với phần đất trên có nhà thờ mà cô út được chia) thì do cô út quản lý sử dụng. Hiện nay tất cả chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bằng khoán điền thổ của thửa đất vẫn đứng tên ông nội.
Như vậy, những phần đã chia cho các thừa kế thì thuộc quyền sở hữu của từng thừa kế.
Đối với diện tích mà bố ông được chia, sau khi bố ông mất thì là di sản thừa kế của ông và các anh chị em ông (nếu có). Ông và các chị em ông được quyền sở hữu diện tích đất này theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự(1): “Cá nhân có quyền... hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Đối với diện tích đất của bà cô độc thân. Khi bà cô mất, vì bà cô không có con cái, và không có di chúc nên diện tích đất của bà cô sẽ là di sản thừa kế của những người thuộc hàng thừa kế thứ hai gồm: các anh chị em ruột của bà cô theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2). Có nghĩa là ông chú ở nước ngoài, bà cô út và bố của ông (nếu bố ông mất sau bà cô độc thân). Trong trường hợp bố ông mất sau bà cô thì các anh chị em ông được xác định là những thừa kế đối với một phần di sản của bà cô (là phần của bố ông). Nay phường đã lấy chỗ đất này cấp cho người khác thì những người thừa kế có quyền làm đơn khiếu nại Uỷ ban nhân dân phường lấy đất này cấp cho người khác hoặc có thể khởi kiện tại Toà án nhân dân buộc người đang sử dụng đất phải trả lại đất và yêu cầu chia thừa kế (vì ông chú ở nước ngoài cũng đang có yêu cầu chia đất thừa kế).
Đối với diện tích chưa chia cho ai: Đây là di sản thừa kế chưa chia của ông nội cho những người thừa kế cùng hàng. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(3) quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Do đó, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều luật này thì những người con của ông bà nội (bao gồm cả người chú ở nước ngoài) là hàng thừa kế thứ nhất đối với phần đất chưa chia. Theo quy định tại Điều 636 Bộ luật dân sự(4) thì thời điểm ông nội chết là thời điểm mở thừa kế.
Nếu thời điểm ông nội mất trước ngày 01/7/1991: căn cứ Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế sẽ hết vào ngày 10/3/2003. Như vậy, chỉ có cô út đang quản lý phần nhà đất này thì được tiếp tục quản lý sử dụng.
Nếu thời điểm mở thừa kế từ ngày 01/7/1991 đến trước ngày 01/7/1996 thì theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế quy định: “Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác”.
Nếu thời điểm mở thừa kế từ 01/7/1996 trở đi sẽ áp dụng quy định của Điều 648 Bộ luật dân sự, cụ thể: “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Trong trường hợp không còn thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế mà giữa các đồng thừa kế không có tranh chấp thì theo quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế nếu: “trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...”.
-----------------------------------------
(1) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm b khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại".
(3) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp toà án tuyên bố 1 người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 điều 81 của Bộ luật này.
2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản".

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 1900 6279 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Nơi đặt câu hỏi
 
Mọi vướng mắc về vấn đề pháp lý liên quan đến pháp luật các lĩnh vực pháp luật các anh/chị có thể liên hệ qua số 0909 160684 (Ls Phụng) hoặc 097 88 456 17 (Ls Huy) để hẹn gặp luật sư và báo phí dịch vụ. Chúng tôi tư vấn và nhận hồ sơ tại nhà đối với khách hàng sử dụng dịch vụ các quận nội thành TP.HCM

Bộ đếm

  • Đang truy cập: 315
  • Khách viếng thăm: 313
  • Máy chủ tìm kiếm: 2
  • Hôm nay: 37330
  • Tháng hiện tại: 100655
  • Tổng lượt truy cập: 26669113

Thông tin liên hệ

VĂN PHÒNG TẠI  TP HỒ CHÍ MINH
A-10-11 Centana Thủ Thiêm, số 36 Mai Chí Thọ, Phường An Phú, Q.2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel/Fax: 028. 38 991104 - 35 126565
Di động: 0909 160684 - 0978845617
Email:  info@luatsuhcm.com

ĐẠI DIỆN TẠI HÀ NỘI

Tầng 18, Tòa nhà N105, Ngõ 105 Đường Nguyễn Phong Sắc, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
Cell: 
 0967388898
Email: lschinh@luatsuhcm.com

Quảng cáo


Dịch vụ