Thừa kế thế vị cho bố

Câu hỏi:
Ông bà nội tôi mất đi (bà mất năm 1998, ông mất năm 2000) có để lại hơn 1000m2 đất, hiện nay cô chú ruột tôi đang sử dụng và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông bà vẫn đứng tên trong sổ địa chính. Trên đất không có nhà cửa cây cối gì vì cô chú đã phá hết chỉ còn đất không. Còn bố tôi (là con cả) đã mất từ năm 1989, mẹ con chúng tôi hiện nay ở chỗ khác và không có hộ khẩu tại mảnh đất đó. Nay cô chú tôi muốn bán hết chỗ đất này để dùng cho việc riêng. Hỏi gia đình tôi có quyền được hưởng một phần trong số đất nói trên không? Mẹ tôi và tôi thì ai là người được xác định là người thừa kế của ông bà nội vì bố tôi đã mất trước ông bà?
Trả lời:
Vì mảnh đất nêu trên là tài sản của ông bà nội của ông nên khi ông bà mất đi thì mảnh đất này là di sản thừa kế của ông bà nếu phù hợp với quy định của pháp luật cụ thể: tại tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự hôn nhân và gia đình ban hành ngày 10/8/2004 quy định như sau: “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.
Căn cứ dữ kiện ông nêu (cụ thể mảnh đất hiện nay vẫn mang tên ông bà nội trong sổ địa chính) nên phù hợp với điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 (có hiệu lực từ 01/7/2004) do đó thuộc trường hợp quy định của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP như nêu ở trên.
Vì ông bà nội mất không có di chúc nên những người thừa kế của ông bà sẽ được xác định theo quy định của pháp luật (tức là theo hàng thừa kế theo quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự). Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) quy định về hàng thừa kế theo pháp luật thì con dâu và cháu không thuộc hàng thuộc hàng thừa kế nào của ông bà nội. Có nghĩa là chỉ có cô và chú ruột của ông mới là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông bà.
Vì bố của ông mất trước khi ông bà nội mất nên ông vẫn được xác định là thừa kế thế vị của bố ông theo quy định tại Điều 680 Bộ luật dân sự(2) cụ thể như sau: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống”.
Căn cứ Điều luật nêu trên ông là người thừa kế thế vị của bố và được hưởng kỷ phần của bố ông tương ứng với kỷ phần mà cô và chú của ông được hưởng. Theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(3) thì “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”. Vì ông bà mất từ năm 1998 và năm 2000 nên vẫn còn trong thời hiệu thừa kế do đó trong trường hợp cô và chú của ông không đồng ý chia cho ông một phần đất thì ông có quyền yêu cầu Toà án chia thừa kế đối với di sản của ông bà nội để lại.
------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng 1 thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
(3) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây