Tranh chấp thừa kế là tài sản chung của vợ chồng

Câu hỏi:
Bố tôi trước đây là cán bộ ngành đường sắt. Năm 1955 bố tôi được cơ quan phân một căn nhà cấp bốn lợp Fibro xi măng. Bố mẹ tôi có tám người con, khi lớn lên lần lượt các em tôi đi ở nơi khác chỉ còn bố mẹ và vợ chồng tôi là con trưởng ở lại căn nhà thuê của nhà nước. Vợ chồng tôi đã bỏ tiền xây dựng nhà thành ba tầng một tum vào năm 1999. Năm 2000 mẹ tôi mất, bố tôi vì già cả nên đã giao cho tôi quyền chủ hộ gia đình. Năm 2001 khi Nhà nước có chủ trương hóa giá căn nhà, bố tôi không có tiền đã cho phép vợ chồng tôi đứng ra làm thủ tục mua nhà của nhà nước. Các em tôi cũng đồng ý với quyết định của bố tôi với điều kiện hai vợ chồng phải xây dựng nhà và nuôi dưỡng bố. Sau khi nộp tiền mua nhà vợ chồng tôi được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ngôi nhà đứng tên cả hai vợ chồng. Hỏi ngôi nhà này có phải là tài sản của bố tôi nữa hay không? Các em tôi có quyền yêu cầu chia thừa kế đối với nhà, đất này không?
Trả lời:
Theo tài liệu mà ông cung cấp cụ thể là Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 6598/2001/QĐ-UB cấp ngày 05/11/2001 chúng tôi thấy có ghi tên chủ sở hữu nhà ở và chủ sử dụng đất ở là ông và vợ ông đối với căn nhà ba tầng một tum diện tích 27,60m2 trên diện tích đất 46,1m2 tại phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội.
Để xác định những người em của ông có quyền hưởng thừa kế với nhà đất mà vợ chồng ông đang sử dụng và được cấp giấy chứng nhận, cần phải xác định xem ngôi nhà này có phải là tài sản của bố mẹ ông hay không vì theo quy định tại khoản 1 điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995 (1)thì: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác".
Căn cứ dữ kiện ông nêu nguồn gốc căn nhà cấp bốn trước kia nguyên là căn hộ mà bố ông được Cơ quan bố ông (là Tổng cục đường sắt) phân cho sử dụng từ năm 1955 và đã được Cơ quan chính thức bàn giao nhà ở này cho bố ông theo quyết định vào năm 1990.
Căn cứ điều 2 Nghị định số 60/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất ở tại đô thị thì căn hộ mà bố ông được phân là "nhà ở thuộc sở hữu nhà nước" theo quy định tại khoản 2 điều này. Năm 1999 vợ chồng ông đã được bố ông cho phép phá toàn bộ căn nhà cấp 4 cũ và xây dựng thành ngôi nhà 3 tầng. Tuy nhiên quyền sử dụng đất vẫn thuộc sở hữu nhà nước chỉ có giá trị xây dựng trên đất là của vợ chồng ông. Do vậy chỉ khi nhà nước cho phép chuyển quyền sử dụng đất thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê theo quy định của pháp luật thì người sử dụng nhà đất  mới được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.
Căn cứ điều 5 Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ về mua bán, kinh doanh nhà ở quy định: " Nhà nước thực hiện bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê phần diện tích đang được thuê...". Điều 3 Nghị định số 61/CP quy định: "Mua bán nhà ở là việc chuyển quyền sở hữu nhà ở và chuyển quyền sử dụng đất ở từ bên bán sang bên mua thông qua hợp đồng được ký kết bằng văn bản giữa bên mua và bên bán theo đúng quy định của pháp luật". Vì bố ông là người được nhà nước phân nhà nên được xác định là người thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước. Chính vì vậy đến năm 2001 Nhà nước hoá giá bán thanh lý nhà cho bố ông là phù hợp với quy định nêu trên.
Căn cứ điều 7 Nghị định 61 quy định về giá bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước như sau: " Gía nhà ở và giá đất ở khi chuyển quyền sử dụng" thì gia đình ông phải trả tiền sử dụng đất.
1. Giá nhà ở được xác định căn cứ vào giá trị còn lại của nhà ở...
2. Giá đất ở khi chuyển quyền sử dụng do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ vào khung giá đất do Nhà nước quy định và căn cứ vào vị trí của đất ở và tầng ở..."
Tuy nhiên vì bố ông đã già và không có tiền mua nhà thanh lý nên đã giao cho ông làm chủ hộ gia đình (năm 2000) và cho phép ông được đứng ra làm thủ tục mua nhà thuộc sở hữu nhà nước. Vợ chồng đã bỏ tiền để mua nhà của nhà nước với sự nhất trí thoả thuận của các anh em ông.
Vì căn nhà cấp 4 nguyên thủy của nhà nước phân đã không còn do đó gia đình ông chỉ phải trả tiền sử dụng đất cho Nhà nước để được chuyển quyền sử dụng đất thông qua hợp đồng mua bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định nêu trên.
Căn cứ điều 10 Nghị định 61 quy định: " Người mua nhà sau khi trả hết tiền và hoàn tất thủ tục nộp lệ phí trước bạ thì được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở". Căn cứ dữ kiện ông nêu thì vợ chồng ông đã được cấp giấy chứng nhận năm 2001 với sự đồng ý của bố và sự nhất trí của các anh em.
Căn cứ khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: " tài sản chung vợ chồng là tài sản gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra...trong thời kỳ hôn nhân.... Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung vợ chồng..." nên ngôi nhà ba tầng một tum trên diện tích 46,1m2 đất có nguồn gốc của nhà nước trước kia là tài sản chung của hai vợ chồng ông. Căn cứ khoản 1 điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995 thì nhà và quyền sử dụng đất này không phải là tài sản riêng của bố ông và bố ông cũng không phải là đồng sở hữu với vợ chồng ông. Do đó các em của ông không có quyền hưởng thừa kế đối với nhà đất này.
------------------------------------------------
(1) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác".

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây