Vợ hai và các con của vợ hai có được hưởng thừa kế không ?

Câu hỏi:
Bố tôi có hai vợ: vợ cả lấy năm 1956 ở Hải Phòng sinh được tám người con (trong đó có tôi), vợ hai lấy năm 1978 ở Hà Nội có tổ chức đám cưới và có ba người con. Bố tôi vẫn đi lại với cả hai bà vợ. Năm 2001 bố tôi mất có để lại một tài sản là căn nhà cấp bốn trên diện tích 74m2 tại thôn Nam Dư Thượng, xã Lĩnh Nam, Thanh Trì, Hà Nội. Căn nhà này do bố tôi được hưởng thừa kế của ông nội theo bản án của Toà án Hà Nội năm 1988 hiện vẫn đứng tên của ông nội. Từ khi được chia căn nhà này bố tôi vẫn để không vì người vợ hai có chỗ ở khác. Nay chị em chúng tôi muốn chia thừa kế căn nhà trên Hà Nội để lấy nơi thờ cúng tổ tiên hương khói cho bố(vì quê bố ở Hà Nội). Nhưng bà vợ hai muốn lấy căn nhà này để cho người con trai út (con chung với bố tôi). Vậy bà vợ hai và các con của vợ hai có được hưởng thừa kế không?
Trả lời:
Vì bố anh lấy người vợ hai ở Hà Nội vào năm 1978 là trong thời gian Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực. Theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thời đó chỉ thừa nhận chế độ hôn nhân một vợ một chồng cụ thể Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Cấm lấy vợ lẽ”. Do đó quan hệ giữa bố anh và người vợ hai ở Hà Nội không được pháp luật thừa nhận là vợ chồng.
Sau khi lấy bà vợ hai, bố anh vẫn giữ quan hệ vợ chồng với người vợ cả ở Hải phòng. Năm 1988 bố anh được hưởng thừa kế của ông nội căn nhà tại Thanh Trì, Hà Nội là trong thời gian Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực. Theo quy định tại Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản ...hoặc những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”. Như vậy, căn nhà ông được hưởng thừa kế của bố ông theo bản án năm 1988 là tài sản chung vợ chồng của bố anh và người vợ thứ nhất (là mẹ của anh), còn người vợ hai không có quyền lợi đối với tài sản này vì không được pháp luật công nhận là vợ hợp pháp của bố anh .
Năm 2001 bố anh mất không để lại di chúc nên diện tích nhà đất trên một nửa là tài sản của mẹ anh, một nửa là di sản thừa kế của bố anh và được chia theo quy định của pháp luật. Căn cứ dữ kiện anh nêu thì căn nhà này do người vợ hai đang quản lý và không có ý định chia cho các anh chị em anh mà định để cho người con trai út (con chung của bà vợ hai với bố anh). Căn cứ điều 648 Bộ luật dân sự(1) quy định về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế như sau: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”. Vì bố anh mất năm 2001 nên hiện nay vẫn còn thời hiệu khởi kiện yêu cầu Toà án chia thừa kế đối với di sản của bố anh. Do đó các đồng thừa kế có thể yêu cầu Toà án chia thừa kế theo quy định của pháp luật để xác định kỷ phần thừa kế của mỗi người được hưởng.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) thì mười một người con (của cả hai người vợ) và người vợ cả có đăng ký kết hôn là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và theo quy định tại khoản 2 Điều này(3) thì “những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau” (tổng cộng là 12 người).
Điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự về những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. 
Tuy nhiên, người vợ hai vẫn có thể được toà án cho hưởng một phần trong di sản thừa kế của bố ông vì có công đóng góp, bảo quản, duy tu đối với khối tài sản đó. Vì mẹ anh và 8 người con đã có nhà ở tại Hải phòng nên mẹ anh và các anh chị em của anh có thể đề nghị toà án chia bằng hiện vật chung 1 khối để lấy chỗ làm nơi thờ cúng bố anh tại Hà Nội -là quê của bố anh.
------------------------------------------
(1) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(2) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Khoản 2 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây