Xác định di sản thừa kế của ba mẹ

Câu hỏi:
Theo sổ đỏ hiện nay tôi đang giữ thì diện tích đất 655m2 tại phường Thanh Trì, Hoàng Mai, Hà Nội đứng tên bố tôi. Hiện nay chỉ có tôi và chị dâu tôi sử dụng diện tích này mặc dù bố mẹ tôi có sáu người con (chồng của chị dâu tôi mất năm 2000). Nguồn gốc của diện tích 655m2 đất này như sau: 360m2 của cụ H (là chị gái bà nội tôi) và cụ H đã có giấy di chúc cho tôi; 257m2 thì năm 1990 bố tôi bán cho người khác (có giấy viết tay) nhưng đến năm 1991 tôi đã bỏ tiền ra chuộc lại ngay (nhưng vẫn để chung trong giấy chứng nhận của bố mà không yêu cầu địa phương làm thủ tục tách thửa). Hỏi: Nay bố tôi đã mất tôi phải làm thế nào để được công nhận quyền sở hữu đối với diện tích 257m2 đã bỏ tiền ra chuộc và diện tích đất mà cụ H đã di chúc cho tôi vì hiện nay giữa tôi và người chị dâu chưa phân định ranh giới sử dụng đất? Di sản thừa kế của bố tôi được xác định như thế nào?
Trả lời:
Vì toàn bộ diện tích đất 655m2 đã được cấp giấy chứng nhận mang tên bố của chị nên là tài sản của bố chị. Khi bố chị chết và không để lại di chúc thì diện tích này là di sản thừa kế của bố chị để lại cho những người thừa kế theo pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) quy định về hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Như vậy sáu người con của bố chị là hàng thừa kế thứ nhất. Còn người chị dâu hiện đang trực tiếp sử dụng diện tích đất nêu trên không thuộc hàng thừa kế của bố chị mà chị dâu và các con chỉ được hưởng kỷ phần thừa kế của anh trai chị trong khối tài sản thừa kế của bố chị được hưởng nếu anh trai còn sống. (Vì chồng của người chị dâu này đã mất vào năm 2000 có nghĩa là sau thời điểm mở thừa kế của bố chị nên người này vẫn được hưởng thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 638 Bộ luật dân sự(2)).
Khoản 1 Điều 638 Bộ luật dân sự quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết”.
Nếu những người anh em khác của chị khước từ quyền thừa kế thì chỉ có chị và người chị dâu đang ở đó phải giải quyết về vấn đề phân chia di sản.
Căn cứ Điều 637 Bộ luật dân sự(3) quy định di sản thừa kế gồm: “Tài sản riêng của người chết, phần tài sản riêng của người chết trong tài sản chung với người khác". Vì trong diện tích đất này có 360m2 là đất của cụ H và đã để lại cho chị theo di chúc và 257m2 là đất của chị chuộc lại từ năm 1991 nên di sản thừa kế của bố chị chỉ còn lại 38m2.
Để bảo vệ quyền lợi chị cần phải thực hiện các thủ tục sau:
- Một là: Yêu cầu Toà án xác nhận quyền thừa kế đối với 360m2 đất của cụ H để lại cho chị theo di chúc. Căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(4) thì chị chỉ có quyền yêu cầu Toà án giải quyết vấn đề này trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm cụ H mất. Trường hợp hết thời hiệu mười năm thì chị vẫn có quyền yêu cầu Toà án cho hưởng diện tích này nếu phù hợp với quy định của điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/ NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
Điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...".
Cụ thể là Toà án sẽ xác định 360m2 này là tài sản thuộc sở hữu chung theo di chúc của cụ H nếu các đồng thừa kế của cụ H đồng ý không có tranh chấp về hàng thừa kế và cùng đồng ý cho chị hưởng di sản theo di chúc của cụ H.
- Hai là: Yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu đối với diện tích đất 257m2 mà chị chuộc lại năm 1991. Vì diện tích này đã bị bố chị bán đứt cho người khác vào năm 1990 do đó không còn thuộc sở hữu của bố chị nữa. Sau đó chị lại bỏ tiền mua diện tích đất này nên nó là tài sản của chị. Trường hợp này thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân vì đất này đã được cấp giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003.
Khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí được thì giải quyết như sau:
1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết”.
Trên cơ sở quyết định của Tòa án, chị mới có căn cứ để xác định ranh giới sử dụng diện tích đất với chị dâu. Nếu chị dâu sử dụng quá phần của mình thì phải trả lại cho chị. Trong trường hợp đã xây nhà không thể trả lại thì chị dâu phải có trách nhiệm thanh toán lại bằng tiền theo giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm hiện nay.
------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 635 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác".
(4) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây