Chia thừa kế là đất của ông bà ?

Câu hỏi:
Gia đình tôi hiện nay đang vô cùng mâu thuẫn về chuyện chia nhà, đất do các cụ để lại. Đó là việc ông chú tôi có ý định kiện đòi chia thừa kế. Ông nội tôi sinh được sáu người con: hai con trai (là bố tôi và chú tôi) và bốn con gái. Năm 1950 bố tôi mất vì chiến tranh, năm 1951 ông tôi mất và không viết di chúc để lại đất cho ai. Bà nội tôi mất năm 1996 và cũng không có di chúc. Sau khi bà mất thì mẹ tôi đứng tên trong sổ địa chính. Từ năm 1963 chú tôi lấy vợ sau đó về ở luôn nhà vợ. Còn lại tôi và chị gái sống cùng mẹ trên mảnh đất của ông nội (các cô tôi đã lấy chồng hết). Nhà đất hiện nay đã được cấp sổ đỏ cho mẹ tôi. Hiện chú tôi muốn xin đất của gia đình tôi đang sử dụng để sống cùng vợ hai (vợ cả của chú đã mất). Nhưng gia đình tôi không cho và chú doạ sẽ đi kiện ra Toà. Hỏi: chú tôi có quyền kiện đòi gia đình tôi chia đất cho chú không?
Trả lời:
Vì nhà trên diện tích đất thổ cư là tài sản chung vợ chồng của ông bà nội anh. Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì một nửa thuộc tài sản của bà nội và một nửa là tài sản của ông nội. Theo quy định tại khoản 1 Điều 637 Bộ luật dân sự(1), khi ông nội mất thì phần tài sản của ông trong khối tài sản chung với bà nội là di sản thừa kế chưa chia của những người thừa kế theo pháp luật. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) thì bà nội và các người con của ông bà thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông nội. Vì bố ông mất trước ông nội (1950) nên căn cứ Điều 680 Bộ luật dân sự(3) quy định “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống...", nên những người con của bố ông (giả sử lúc đó các chị em ông đã sinh ra) được hưởng thừa kế thế vị.
Theo quy định tại Điều 636 Bộ luật dân sự(4) thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Như vậy khi ông nội anh mất những người đồng thừa kế có thể tự thoả thuận để phân chia di sản. Trong trường hợp không thống nhất giữa các đồng thừa kế hoặc có tranh chấp thì ông có thể yêu cầu Toà án giải quyết.
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì vào thời điểm ông nội mất không có ai yêu cầu chia (vì chú anh và bốn người cô đã đi ở chỗ khác). Hiện nay có người chú thứ năm muốn đòi chia một phần đất của ông nội mà gia đình ông đang quản lý sử dụng nên cần xác định có còn thời hiệu khởi kiện chia thừa kế hay không.
Theo quy định tại Điều 9 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì: “Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1991 mà di sản thừa kế chưa chia, nếu có yêu cầu chia, thì giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế”. Căn cứ Điều 36 Pháp lệnh thừa kế quy định “thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế” và “đối với các việc thừa kế mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn được tính từ ngày công bố Pháp lệnh” (ngày công bố Pháp lệnh là ngày 10/9/1990). Vì thời điểm mở thừa kế đối với ông nội anh trước ngày 01/7/1991 nên căn cứ Thông tư liên tịch số 01/1999/TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế sẽ hết vào ngày 10/3/2003.
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì bà nội mất năm 1996 nên căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(5) quy định về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế như sau: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”. Như vậy, đến năm 2006 sẽ hết quyền khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với phần tài sản của bà.
Tuy nhiên theo dữ kiện ông nêu thì sau khi bà nội mất năm 1996 thì mẹ ông đứng tên trong bản đồ địa chính và là người trực tiếp sử dụng đất còn người chú thì đi ở chỗ khác từ năm 1963. Do vậy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mẹ ông là phù hợp với khoản 1 Điều 48 Luật đất đai năm 2003 và việc mẹ ông được đăng ký trong sổ địa chính cũng được coi là có giấy tờ hợp lệ về đất ở để được cấp giấy chứng nhận theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003.

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây