Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế

Câu hỏi:
Bố mẹ tôi có bảy người con. Bố chúng tôi mất năm 1958, còn mẹ mất năm 1952. Khi bố mẹ qua đời có để lại cho anh em chúng tôi khối di sản là hai thửa đất số 243 và 244 ở thôn Kiêu Kỵ, xã Kiêu Kỵ, Gia Lâm và không có di chúc. Thửa 243 có diện tích 1193m2 trên có nhà tranh mái lá, dùng làm nhà thờ và ở, có bếp, sân phơi, bể nước. Thửa 244 có diện tích là 1.819m2 gồm ao và luỹ tre. Tổng diện tích là 3.041m2. Sau khi bố tôi mất năm 1958 các anh chị em tôi đều đi thoát ly giao cho anh trưởng quản lý trông coi tài sản chung này. Sau đó anh trưởng mất, bà Đ là vợ lẽ của anh trai trưởng trực tiếp quản lý sử dụng toàn bộ diện tích này, tiến hành kê khai và đóng thuế. Năm 1973 bà Đ tự ý phá bỏ nhà thờ, nhà ở, bếp, sân phơi để trồng cây ăn quả thu lợi. Đến tháng 4/2002 bà Đ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 244 cho anh T là con rể của bà. Khi biết được việc này (tháng 5/2002) chúng tôi đã liên tục gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã và Phòng Địa chính huyện khiếu nại bà Đ có hành vi chiếm đoạt di sản thờ cúng của anh em chúng tôi trên hai thửa đất 243 và 244. Ngày 15/9/2003 Hội đồng gia tộc đã họp lập biên bản thống nhất xác định rõ 2 thửa đất nói trên cùng tài sản thuộc sở hữu của các đồng thừa kế là bảy anh em chúng tôi. Vậy việc bà Đ tự ý đăng ký sử dụng hai thửa đất trên mà không hỏi ý kiến của các anh em chúng tôi có đúng không? Việc chính quyền cho bà Đ đăng ký sử dụng hai thửa đất trên có trái pháp luật thừa kế không? Bà Đ tự ý chuyển quyền sử dụng thửa 244 cho con rể có đúng không? Trường hợp này thời hiệu chia thừa kế có còn không? Chúng tôi có đòi được phần tài sản của chúng tôi trong khối tài sản chung này không?
Trả lời:
Quyền yêu cầu chia thừa kế là một trong những nội dung của quyền thừa kế theo quy định tại khoản 1 điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995. Vì bố mẹ ông mất không có di chúc nên việc chia thừa kế theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) thì bảy anh chị em ông thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần di sản bằng nhau. Còn bà Đ không thuộc hàng thừa kế nào của bố mẹ ông (vì là con dâu).
Điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995: "1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết".
Căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(2) thì "thời hiệu yêu cầu chia thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế". Nhưng vì bố mẹ ông đều mất trước ngày 01/7/1991 nên việc yêu cầu chia thừa kế phải căn cứ vào các văn bản sau: Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Pháp lệnh thừa kế (khoản 1, 4 Điều 36); Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10. Căn cứ vào các văn bản pháp luật đó thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế sẽ hết vào ngày 10/3/2003.
Vì sáu anh em đi thoát ly chỉ có anh trưởng ở lại nên anh trưởng là người quản lý tài sản chung. Sau khi anh trưởng mất thì vợ anh trưởng (là bà Đ) tiếp tục quản lý nên bà Đ đứng ra kê khai đất với tư cách người đang sử dụng đất là đúng thực tế. Tuy nhiên, đáng ra bà Đ phải ghi rõ chỉ là quản lý hộ khối tài sản chung của bảy anh em. Năm 1973 bà Đ đã tự ý phá nhà thờ và sân, bếp để trồng cây thu lợi và năm 2002 tự ý chuyển nhượng thửa 244 cho con rể và không hỏi ý kiến của các anh em ông là không đúng vì bà Đ không phải là chủ sở hữu nên không có quyền định đoạt. Việc bà Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trên là không có căn cứ vì bà Đ không có các giấy tờ về thừa kế, tặng cho nhà đất theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003.
Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003: “1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất...”.
Do bà Đ đã tự ý chuyển nhượng một phần diện tích nhà đất thừa kế của anh em ông nên các ông đã có đơn khiếu nại gửi Uỷ ban nhân dân xã giải quyết và ngày 15/9/2003 các anh em ông đã họp gia tộc và cùng thoả thuận xác định đó là tài sản chung của các đồng thừa kế.
Căn cứ Điều 230 Bộ luật dân sự(3) quy định: “Quyền sở hữu chung được xác lập theo thoả thuận của các chủ sở hữu...”. Do đó tuy bố mẹ mất đi không để lại di chúc nhưng nếu bảy anh em của ông thống nhất đó là tài sản thuộc sở hữu chung và giao cho một người thay mặt quản lý thì bảy anh em ông được coi là những đồng sở hữu đối với khối tài sản chung này. Việc thoả thuận này là phù hợp với quy định của pháp luật, cụ thể ở đây là Điều 684 Bộ luật dân sự(4).
Điều 684 Bộ luật dân sự: “1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa  kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a. Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b. Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”.
Tại điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “Trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm  mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”.
Như vậy, kể từ thời điểm năm 2003 tài sản đó là tài sản chung của các sở hữu chung là sáu anh em ông. Hiện nay, nếu bà Đ cố tình chiếm giữ diện tích nhà đất đó không chịu giao lại cho sáu anh em ông thì các anh em có thể khởi kiện ra Toà yêu cầu Toà án giải quyết chia tài sản chung.
(Đăng trên Báo Kinh tế & Đô thị số 60 thứ 4 ngày 19/5/2004 dưới nhan đề “Có thể yêu cầu Toà án giải quyết”).
--------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(3) Điều 215 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây