Câu hỏi:
Em xin hoi em co Mua mot. Manh dat khong co bia do. Ma Giua hai Ben Mua ban chi chi co giay to viet tay.va sac nhan cua ubnnxa. Nhu vay manh dat cua em co hop phap khong? Va em duoc ban hoac chuyen nhuong khong? Em xin chan thanh cam on!
Trả lời:
Chào bạn,
Theo quy định của luật đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải lập hợp đồng công chứng hoặc có chứng thực của UBND thì mới coi là hợp pháp.
Theo quy định của pháp luật một trong hai bên có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, khi hợp đồng vô hiệu thì các bên trao trả lại những gì đã nhận của nhau, bên nào gây thiệt hại thì bên đó phải bồi thường cho bên kia. Vì thế về căn cứ pháp luật , mảnh đất mà mẹ bạn mua là không hợp pháp.
Tuy nhiên, do bạn không nêu rõ thời gian nào Mẹ bạn thực hiện việc mua bán, chuyển nhượng mảnh đát nên chúng tôi không thể tư vấn cụ thể cho bạn đươc, chúng tôi giả sử bạn thuộc một trong các trường hợp sau:
Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này theo Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP: .
b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.
b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.
b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.
- Trường hợp nhà đất mua bán, chuyển nhượng bằng giấy viết tay trước ngày 1/7/2004 thì được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nếu đủ điều kiện quy định tại khoản 2, khoản 4, khoản 6 điều 50 của Luật Đất đai.
- Trường hợp nhà đất mua bán, chuyển nhượng bằng giấy tay sau ngày 1/7/2004 thì phải thực hiện đúng các thủ tục đăng ký mua bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 106 Luật Đất đai thì người sử dụng đất được thực hiện quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau:
- Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Đất không có tranh chấp;
- Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
- Trong thời hạn sử dụng đất.
Ngoài ra, Khoản 1- Điều 66 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính Phủ "quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai" cũng có quy định như sau:
"Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, người sử dụng đất phải có Giấy chứng nhận mới được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này."
Vì vậy, để thực hiện việc mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bạn phải đáp ứng những điều kiện trên.
Chúng tôi trên mạng xã hội