Thời hạn di chúc

Câu hỏi:
Bà nội tôi chết có để lại di chúc cho chị em tôi (là cháu nội) được thừa hưởng phần di sản của bà là 2/3 ngôi nhà tôi đang ở (từ năm 1994), nhưng hiện nay giấy tờ nhà lại do bác của tôi giữ. Như vậy, di chúc của chúng tôi đang giữ có thời hạn thực hiện trong bao lâu? Vì hiện nay giấy tờ nhà do người bác giữ vậy chúng tôi phải làm gì để được hưởng di sản thừa kế của bà nội?
Trả lời:
Vì bà nội để di chúc cho chị em ông hưởng 2/3 ngôi nhà là tài sản của bà nội, do đó chỉ có 2/3 ngôi nhà là được chia theo di chúc còn 1/3 ngôi nhà do không định đoạt trong di chúc nên sẽ chia thừa kế theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 678 Bộ luật dân sự(1) cụ thể: “Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc”.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) quy định những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Như vậy, các anh em của bố ông (có cả người bác) sẽ là những người được hưởng thừa kế đối với 1/3 ngôi nhà của bà nội.
Theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(3) thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm người để lại di sản thừa kế chết. Trong trường hợp còn trong thời hiệu thì ông có quyền khởi kiện chia thừa kế theo di chúc, còn phần di sản không được định đoạt trong di chúc thì yêu cầu Toà án chia theo quy định của pháp luật cho những người cùng hàng thừa kế (nếu họ có yêu cầu). Nếu đã hết thời hiệu thì không còn quyền yêu cầu chia thừa kế nữa tuy nhiên Toà án vẫn có thể giải quyết mà không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế nếu thuộc trường hợp quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn việc áp dụng pháp luật giải quyết các vụ án dân sự. Cụ thể:
Căn cứ điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP quy định như sau: “Sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà những đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”.
Do đó nếu đủ điều kiện như nêu trên, khi có tranh chấp giữa chị em ông và người bác thì ông có quyền làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết chia cho chị em ông 2/3 diện tích nhà đất theo di chúc. Còn 1/3 ngôi nhà không được định đoạt trong di chúc sẽ được chia theo pháp luật về tài sản chung cho những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất của bà nội (vì bố ông mất nên kỷ phần của bố ông do chị em của ông được hưởng).
Sau khi có phán quyết của Toà án chị em ông có thể làm thủ tục sang tên diện tích nhà đất sang tên mình. Căn cứ khoản 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định bản án hoặc quyết định của Toà án cũng là một trong các giấy tờ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hai chị em ông cũng có thể thoả thuận cùng đứng tên hoặc phân chia diện tích đất đó để từng người đứng tên theo phần căn cứ vào biên bản phân chia giữa hai đồng thừa kế.
------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây