Thời hiệu yêu cầu tòa án chia thừa kế

Câu hỏi:
Bố tôi có hai vợ: bà cả cưới năm 1953, có một con gái (là tôi); bà hai cưới năm 1970 và có hai con: một trai, một gái (bà hai có một con riêng là con trai). Năm 1953 bố mẹ tôi (bố và bà cả) mua một thửa đất có diện tích 479m2, trên đó bố mẹ tôi và tôi sinh sống. Đến năm 1991 bố tôi qua đời không để lại di chúc. Năm 1994 nhà đất này đã đăng ký chủ sở hữu tên mẹ tôi (bà cả). Sau đó tôi đi lấy chồng ở chỗ khác. Năm 2003 em tôi (con bà hai) là anh H đòi chia thừa kế diện tích đất mà hiện tại mẹ tôi đang sử dụng. Tháng 11/2003 mẹ tôi họp gia đình có tôi và ba người con của bà hai để chia mảnh đất đứng tên mẹ tôi ra làm hai phần: một phần cho anh H - là con trai duy nhất của bố tôi để thờ cúng bố tôi. Phần còn lại là của mẹ tôi toàn quyền sử dụng riêng biệt. Sau đó mẹ tôi quyết định làm di chúc để lại diện tích đất này cho tôi là con duy nhất của mẹ tôi. Hỏi: 1. Anh H có quyền yêu cầu toà án chia thừa kế hay không? Nếu chia thừa kế thì sẽ chia như thế nào, anh H được bao nhiêu? 2. Mẹ tôi (vợ cả) có quyền để lại thừa kế cho tôi không?
Trả lời:
Căn cứ dữ kiện bà cung cấp chúng tôi xác định thửa đất có diện tích 479m2 mà bố mẹ của bà mua năm 1953 là tài sản chung vợ chồng (của bố và mẹ bà) vì lúc này bố bà chưa lấy bà hai theo quy định tại Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 cụ thể: “Vợ chồng có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Nghĩa là mẹ của bà có quyền định đoạt một nửa khối tài sản này.
Đến năm 1970 bố bà lấy vợ hai, thời điểm này Luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam không thừa nhận quan hệ vợ chồng giữa bố bà với người vợ thứ hai. Một nửa diện tích đất trên được xác định là tài sản chung của bố bà với người vợ hai nếu có sự đồng ý của bố bà. Đến năm 1991 bố bà qua đời không để lại di chúc nên có hai tình huống xảy ra:
- Trường hợp 1: Một nửa tài sản chung vợ chồng của bố bà với bà vợ hai được coi là di sản thừa kế của bố bà nhưng chưa chia.
- Trường hợp 2: Nếu không có sự thoả thuận về công nhận tài sản chung giữa bố bà và bà vợ hai thì một nửa khối tài sản đó là di sản thừa kế chưa chia của bố bà và nằm trong khối tài sản chung vợ chồng với mẹ của bà.
Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.   
Nhưng sau khi bố của bà mất thì không có ai yêu cầu chia thừa kế và năm 1994 diện tích nhà đất này đã đăng ký tên mẹ của bà trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không có ai tranh chấp gì.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) quy định hàng thừa kế thứ nhất của bố bà gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Như vậy mẹ con bà và hai con của bà vợ hai là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Tuy nhiên thời điểm mở thừa kế là năm 1991 nhưng không ai yêu cầu chia. Nay anh H (con bà vợ hai muốn chia) thì cần xác định xem còn thời hiệu yêu cầu Toà án chia thừa kế hay không.
Điều 648 Bộ Luật dân sự(2) quy định: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Vì thời điểm bố của bà mất trước khi ban hành Bộ luật dân sự nên căn cứ điểm a tiểu mục 2.2 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định như sau:
“Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế...”.
Khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế quy định: “Trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác”.
Theo các quy định nêu trên thì thời hiệu khởi kiện để chia thừa kế đối với di sản thừa kế của bố ông đã hết. Vì vậy anh H không còn quyền yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích đất của bố bà nữa.
Căn cứ Điều 201 Bộ luật dân sự(3) quy định về quyền định đoạt của chủ sở hữu thì mẹ của bà có quyền định đoạt phần tài sản của mình bằng cách để lại thừa kế cho bà.
Điều 201 Bộ luật dân sự quy định: “Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó.
Chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản”.
-------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(3) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây