Thừa kế nhà mua hóa giá của nhà nước

Câu hỏi:
Vợ chồng ông A có căn nhà nhưng sau đó đã bị Nhà nước quản lý. A có năm người con nhưng chỉ có một người con là B sống cùng trong căn nhà đó trên cơ sở hợp đồng thuê nhà với Nhà nước. A có làm di chúc cho vợ chồng B một phòng, hai phòng còn lại thì bán chia cho bốn người con khác. Sau đó A đã sang tên cho B đứng tên trong hợp đồng thuê nhà. Một thời gian sau căn nhà được Nhà nước bán hoá giá cho người đang ở, đó là gia đình B và A. Gia đình B trả toàn bộ tiền hoá giá. Nay vợ chồng A đã chết vậy những người con khác của A có quyền đòi B bán hai phòng để chia cho họ theo di chúc của A hay không?
Trả lời:
Về quyền sở hữu đối với căn nhà: căn nhà thuộc quyền quản lý của Nhà nước nên không còn là tài sản thuộc sở hữu của A. Theo quy định của pháp luật, Nhà nước cho phép những người đang ở tiếp tục ở dưới hình thức thuê có hợp đồng với Nhà nước. Khi B đứng tên chủ hợp đồng thuê nhà có nghĩa là B có quyền và nghĩa vụ của người thuê nhà vì thuộc sở hữu nhà nước. Bốn người con khác của A không có quyền sử dụng căn nhà vì không ở đó, không đứng tên chủ hợp đồng thuê nhà.
Căn cứ Điều 3 Nghị định số 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở: “Mua bán nhà ở là việc chuyển quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở từ bên bán sang bên mua thông qua hợp đồng ký kết bằng văn bản giữa bên mua và bên bán theo quy định của pháp luật...”. Điều 5 Nghị định số 61/CP cũng quy định: “Nhà nước thực hiện việc bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê phần diện tích đang được thuê để người mua nhà có điều kiện cải tạo chỗ ở...”.
Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 61/CP thì “Người mua nhà sau khi trả hết tiền và hoàn tất thủ tục nộp lệ phí trước bạ thì được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở...”. Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên, ông B đã trả toàn bộ tiền hoá giá căn nhà và vợ chồng ông A không có đóng góp gì vào việc mua nhà thì căn nhà đó thuộc sở hữu của ông B. Tuy nhiên, bản thân ông B phải chứng minh được tiền mua nhà là của mình.
- Về di chúc của A: căn cứ Điều 649 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Đồng thời theo quy định tại khoản 1 Điều 637 Bộ luật dân sự(2): “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Song, di chúc này được lập khi căn nhà không phải là tài sản thuộc sở hữu của A mà thuộc sở hữu nhà nước (vì A ở tại đây trên cơ sở hợp đồng thuê với Nhà nước). Sau đó, Nhà nước bán lại cho B và thuộc sở hữu của B nên căn nhà trên không phải là di sản thừa kế.
Do đó, bản di chúc nói trên là không hợp pháp vì nội dung của di chúc là định đoạt phần tài sản không thuộc sở hữu của A nên các con của A không có quyền yêu cầu chia căn nhà trên theo di chúc.
-------------------------------------------
(1) Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây