Quyền sở hữu tài sản được xác lập theo bản án của Toà án về chia thừa kế

Câu hỏi:
Gia đình tôi có một mảnh đất 100m2 của ông cha để lại. Ông bà tôi có bốn người con: hai trai (bố tôi và chú ruột tôi) và hai gái (đã đi lấy chồng). Ông nội tôi mất sớm. Bố tôi sinh ra có một mình tôi thì nhập ngũ đi bộ đội vào Nam năm 1965 và hy sinh năm 1966. Mẹ tôi ở vậy nuôi tôi và trông nom bà nội. Năm 1972 mẹ tôi xây được một ngôi nhà bốn gian mái ngói. Năm 1973 mẹ tôi đi bước nữa và bà nội đã đuổi mẹ tôi. Năm 1975 mẹ tôi làm đơn kiện đòi bồi thường công sức. Năm 1979, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã giải quyết. Tại án hộ số 334/PTDS đã chia phần cho mẹ tôi được hai gian nhà, bà tôi được hai gian, sân gạch chỗ nào liền nhà chỗ ấy. Bếp và bể sử dụng chung và ghi nhận sự thỏa thuận của mẹ tôi, bà tôi và chú tôi là thống nhất dành cho tôi khối tài sản này. Nhưng do cán bộ địa phương không biết được quyết định của Tòa án nên đến năm 1998 đã cấp sổ đỏ cho chú tôi mà tôi không biết gì. Năm 2000 bà tôi chết không để lại di chúc. Chú tôi vẫn thường nói tôi không có quyền gì đối với nhà đất này. Vậy nhà đất mà chú tôi đang đứng tên có còn là di sản thừa kế của bà nội không? Tôi phải làm gì để đòi lại phần của tôi?
Trả lời:
Căn cứ Điều 254 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Quyền sở hữu có thể được xác lập căn cứ vào bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác”.
Căn cứ quyết định tại án hộ số 334/PTDS ngày 29/8/1975 của Toà án thành phố Hà Nội (không có kháng cáo, kháng nghị) thì những người có quyền lợi là bà nội, mẹ bà cùng thống nhất để cho bà hưởng toàn bộ diện tích nhà đất. Do đó bà có quyền sở hữu khối tài sản này theo quyết định của Toà án. Năm 2000 bà nội mất, chú của bà không có quyền được yêu cầu chia nhà đất này vì không phải là di sản thừa kế của bà nội.
Căn cứ khoản 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án... thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật”. Như vậy, quyết định tại án hộ số 334/PTDS của Toà án thành phố Hà Nội là một trong các loại giấy tờ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì trong án hộ của Toà án đã quyết định bà là người được hưởng toàn bộ khối tài sản chứ không phải là người chú. Do đó, việc cấp giấy chứng nhận cho người chú là không đúng.
Căn cứ khoản 2 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực từ 01/01/2005 quy định những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án trong đó có: “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản”. Do đó, bà có thể gửi đơn ra Toà án nhân dân nơi có nhà đất để yêu cầu người chú phải trả lại tài sản thuộc quyền sở hữu của bà.

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây