Tranh chấp quyền sử dụng đất - bản án

Thứ tư - 16/09/2015 23:18
Ngày 07 tháng 09 năm 2012, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 205/2009 /TLST-DS ngày 08 tháng 06 năm 2009 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 243/2012/QĐXX-ST ngày 24 tháng 08 năm 2012
Mục lục
TÒA ÁN NHÂN DÂN                                 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN BÌNH CHÁNH                                           Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
                                                                                 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH                          
Bản án số:  55/2012/DSST
Ngày: 07/09/2012   
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
 
NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
****

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:  Ông Au Gia Vượng
Các Hội thẩm nhân dân: 1/- Ông Võ Hoàng Thu
                                                 2/-  Ông Trần Văn Hào
Thư ký Tòa án:  Ông  Nguyễn Tấn Việt  Cán bộ Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Lân
Ngày 07 tháng 09 năm 2012, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 205/2009 /TLST-DS ngày 08 tháng 06 năm 2009 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 243/2012/QĐXX-ST ngày 24 tháng 08 năm 2012 giữa:
Nguyên đơn :
               1/- Ông Võ Văn Dũng                      sinh năm 1970
                2/- Bà Võ Thị Tiếng                        sinh năm 1937
               3/- Bà Trần Thị Kim Anh                sinh năm 1963
Địa chỉ: D4/43 ấp 4 xã Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh.
   Người đại diện hợp pháp của bà Tiếng, ông Dũng, bà Kim Ánh:
               Ông Nguyễn Tấn Đạt                       sinh năm 1970
Địa chỉ: 97/148 Hàn Mạc Tử, Phường 12, Quận Tân Bình, TPHCM
Là người đại diện theo ủy quyền
Bị đơn:   
               1/- Ông Nguyễn Văn Pháp  sinh năm1953
               2/- Bà Trần Thị Kim Anh                sinh năm 1960
Địa chỉ: D5/43 ấp 4 xã Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh
   Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Văn Pháp:
               Bà Trần Thị Kim Anh                      sinh năm 1960
Là người đại diện theo ủy quyền
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:
               1/- Bà Đoàn Thị Lê                          sinh năm 1969
Địa chỉ: D4/43 ấp 4 xã Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh.
   Người đại diện hợp pháp của bà  Lê:
               Ông Nguyễn Tấn Đạt                       sinh năm 1970
Địa chỉ: 97/148 Hàn Mạc Tử, Phường 12, Quận Tân Bình, TPHCM
Là người đại diện theo ủy quyền
               2/- Bà Nguyễn Thị Huỳnh Nga      sinh năm 1977
               3/- Bà Nguyễn Thị Kim Hà sinh năm 1979
               4/- Bà Nguyễn Thị Kim Hạnh        sinh năm 1983
               5/ - Ông Nguyễn Trần Trung Hiếu  sinh năm 1986
Địa chỉ: D5/43 ấp 4 xã Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh
      Người đại diện hợp pháp của ông  bà Huỳnh Nga, Kim Hà, Kim Hạnh, Trung Hiếu:
               Bà  Trần Thị Kim Anh
Địa chỉ: D5/43 ấp 4 xã Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh
Là người đại diện theo ủy quyền
               6/- Ông Trần Tấn Thành và bà Nguyễn Thị Nuôi
Địa chỉ: 985/88/4 Lạc Long Quân phường 11 Quận Tân Bình TP. Hồ Chí Minh
               7/- Bà Phạm Thị Chanh
Địa chỉ: 328 Ấp Long Thới xã Long Thượng, huyện Cần Guộc Tỉnh Long An
               8/- Bà Nguyễn Thị Kim Nga
Địa chỉ: 132 Rạch Cùng phường 7 Quận 8 TP. Hồ Chí Minh
               9/- Ông Trần Văn Diệu
Địa chỉ: D10/51 Ấp 4, xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh
               10/- Ông Lại Hữu Thiện
Địa chỉ: D17/39 Ấp 4, xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh
               11/- Ông Trần Văn Cảo và bà Trình Thị Nỉ
Địa chỉ: D5/39 Ấp 4, xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh
               12/- Chi cục thi hành án dân sự huyện  Bình Chánh
   Người đại diện hợp pháp của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh
               Bà Nguyễn Thị Phương- Chấp hành viên
NHẬN THẤY
Trong đơn khởi kiện ngày  27 tháng 4 năm 2009 và các bản tự khai, đại diện hợp pháp của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Tấn Đạt  trình bày như sau:
Bà Võ Thị Tiếng là mẹ của bà Trần Thị Kim Anh có sử dụng phần nhà- đất diện tích 6.196m2 tọa lạc tại D4/43 ấp 4 xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh. Trên phần đất này bà Tiếng có xây dựng một căn nhà diện tích khoảng 100m2 và cho bà Kim Anh ở nhờ.
Đến ngày 23/10/2008 khi bà Kim Anh nhận được quyết định cưỡng chế thi hành án của Chi cục thi hành huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh thì bà Tiếng mới biết bà Kim Anh tự ý đi kê khai đăng ký sử dụng nhà đất cho bà phần nhà - đất có diện tích 332m2 thuộc thửa 727 tờ bản đồ số 10 tọa lạc tại D5/43 ấp 4, xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh mà chưa có sự đồng ý của gia đình bà
Nay bà Tiếng, ông Dũng, bà Anh là những thành viên sử dụng đất của hộ khởi kiện  yêu cầu bà Anh, ông Pháp trả lại cho gia đình  phần nhà- đất trên. Phía gia đình bà Tiếng sẽ hổ trợ cho bà Kim Anh chi phí di dời là 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) và cho phép gia đình bà Kim Anh được lưu cư trong thời gian 1 tháng để tìm nơi ở mới di dời sau khi quyết định (bản án) của tòa án có hiệu lực pháp luật
Trong bản tự khai và lời trình bày tại tòa ngày hôm nay bị đơn đồng thời là đại diện hợp pháp của đồng bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Kim Anh trình bày:
Nguồn gốc phần đất mà gia đình bà đang quản lý sử dụng là của bà Võ Thị Tiếng (mẹ của bà).
Vào năm 1993 mẹ bà là bà Tiếng có cho vợ chồng bà mượn phần đất thuộc thửa 727, tờ bản đồ số 10 có diện tích 332m2 tọa lạc tại Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh để xây dựng nhà ở. Chi phí xây dựng nhà là do bà Tiếng bỏ tiền ra để xây dựng không phải tiền của vợ chồng bà. Sau đó bà tự ý đi đăng ký quyền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có sự đồng ý của bà Tiếng và các anh em khác trong gia đình.
Nay bà Tiếng và các em bà khởi kiện yêu cầu lấy lại phần đất trên thì bà cũng đồng ý trả lại nhà và đất cho bà Tiếng, bà Ánh, ông Dũng
            Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh có bà Nguyễn Thị Phương đại diện trình bày:
            Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh đang thụ lý thi hành các bản án sơ thẩm và phúc thẩm có liên quan đến bà Trần Thị Kim Anh- và ông Nguyễn Văn Pháp.
            Trong quá trình thi hành án Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đã tiến hành mọi thủ tục thi hành án theo qui định nhưng phía bà Kim Anh- ông Pháp không tự nguyện thi hành án.
            Ngày 11/12/2000 để đảm bảo thi hành án thì chi cục đã tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản là  căn nhà D5/43 ấp 4 xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh.
            Ngày 19/11/2007 chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh được bà Nguyễn Thị Kim Nga là người được thi hành án giao một bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 357793 ký ngày 12/06/2002 cấp cho hộ ông Nguyễn Văn Pháp (diện tích 332m2 thuộc thửa 727 tờ bản đồ số 10 Bộ địc chính xã Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh) Đến ngày 23/10/2008 chi cục tiếp tục áp dụng biện pháp cưỡng chế- kê biên quyền sử dụng đất thuộc thửa 727 tờ bản đồ số 10 xã Hưng Long TP. Hồ Chí Minh của hộ ông Pháp và bà Kim Anh. Sau khi kê biên Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh giao tài sản trên cho ông Pháp, bà Kim Anh quản lý, sử dụng, nghiêm cấm mọi hành vi chuyển dịch, sang nhượng tài sản cho đến khi thi hành án xong hoặc có quyết định cho phép được xử lý tài sản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh.
            Sau đó thì phía bà Tiếng và ông Pháp, bà Kim Anh có tranh chấp đối với tài sản Chi cục thi hành án kê biên tại tòa án  
            Nay Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đề nghị TAND huyện Bình Chánh xét xử để xem xét, giải quyết vụ kiện khách quan, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên được thi hành tại Chi cục Thi hành án đang thụ lý giải quyết tránh trường hợp ông Pháp, bà Kim Anh tìm cách trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
            Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông Trần Tấn Thành và bà Nguyễn Thị Nuôi, Bà Phạm Thị Chanh, Bà Nguyễn Thị Kim Nga, Ông Trần Văn Diệu, Ông Lại Hữu Thiện, Ông Trần Văn Cảo và bà Trình Thị Nỉ trình bày: Các ông bà là người được thi hành án theo nội dung các bản án đã có hiệu lực pháp luật về việc ông Dũng và bà Kim Anh phải có nghĩa vụ trả tiền và vàng cho các ông bà. Nay tài sản của ông Pháp và bà Kim Anh mà Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đã kê biên có tranh chấp và đang được Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh thụ lý giải quyết. Các ông bà không có ý kiến gì. Các ông bà xin được vắng mặt trong tất cả các buổi hòa giải và xét xử của Tòa án

                                                                       XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
 Bà Võ Thị Tiếng, ông Võ Văn Dũng, bà Trần Thị Kim Anh khởi kiện tranh chấp về  quyền sử dụng đất với ông Nguyễn Văn Pháp và bà Trần Thị Kim Anh phần đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 357793 ngày 12/06/2002 cấp cho hộ ông Nguyễn Văn Pháp. Đây là tranh chấp về dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo quy định tại khỏan 7 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2011) và điều 136 luật đất đai 2003  
Phần đất tranh chấp toạ lạc tại xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh nên theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2011)  Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh có thẩm quyền giải quyết.
2. Về các yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:
            Căn cứ bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ – Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 14/10/2010 thì vị trí phần đất đang tranh chấp thuộc một phần thửa 727 tờ bản đồ số tờ bản đồ số 10 xã Hưng Long TP. Hồ Chí Minh có diện tích 287,1m2 (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 357793 cấp ngày 12/06/2002 cho hộ ông Nguyễn Văn Pháp)
   Xét lời trình bày của ông Nguyễn Tấn Đạt là người đại diện hợp pháp cho hộ bà Võ Thị Tiếng thì nguồn gốc phần đất đang tranh chấp là của gia đình bà Võ Thị Tiếng quản lý sử dụng. Vào năm 1993 do bà Trần thị Kim Anh là con không có nhà ở nên bà Tiếng có cho bà Kim Anh về xây dựng nhà ở tạm trên phần đất trên. Sau đó bà Kim Anh tự ý đi kê khai đăng ký sử dụng cho bà phần nhà - đất có diện tích 332m2 thuộc thửa 727 tờ bản đồ số 10 tọa lạc tại D5/43 ấp 4, xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh mà chưa có sự đồng ý của gia đình bà
Phía bị đơn có bà Trần Thị Kim Anh là người đại diện hợp pháp cũng có lời trình bày xác nhận phần đất mà hộ gia đình bà Võ Thị Tiếng đang tranh chấp với hộ gia đình bà nói trên nguồn gốc là của bà Võ Thị Tiếng . Vào năm 1993 mẹ bà là bà Tiếng có cho vợ chồng bà mượn phần đất thuộc thửa 727, tờ bản đồ số 10 có diện tích 332m2 tọa lạc tại Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh để xây dựng nhà ở. Chi phí xây dựng nhà là do bà Tiếng bỏ tiền ra để xây dựng không phải tiền của vợ chồng bà. Sau đó bà tự ý đi đăng ký quyền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có sự đồng ý của bà Tiếng và các anh em khác trong gia đình.
Nay bà Tiếng và các em bà khởi kiện yêu cầu lấy lại phần đất trên thì bà cũng đồng ý trả lại nhà và đất cho bà Tiếng, bà Ánh, ông Dũng
Theo nguyên tắc, bình thường khi giải quyết vụ án các bên đương sự thỏa thuận thống nhất giải quyết vụ án thì tòa án mà cụ thể là thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải lập biên bản giải thành và sau đó ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Trong trường hợp này khi bà Võ Thị Tiếng và các thành viên trong hộ yêu cầu hộ ông Nguyễn Văn Pháp, bà Trần Thị Kim Anh trả lại phần đất diện tích diện tích 332m2 thuộc thửa 727 tờ bản đồ số 10 tọa lạc tại xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh trên đó có căn nhà số D5/43 ấp 4, xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh xây dựng không phép (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 357793 cấp ngày 12/06/2002 cho hộ ông Nguyễn Văn Pháp). Phía gia đình bà Tiếng sẽ hổ trợ cho bà Kim Anh chi phí di dời là 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) và cho phép gia đình bà Kim Anh được lưu cư trong thời gian 1 tháng để tìm nơi ở mới di dời sau khi quyết định (bản án) của tòa án có hiệu lực pháp luật. Phía bị đơn bà Kim Anh đại diện cho hộ gia đình đồng ý giao trả lại phần đất trên cho bà Tiếng và không có yêu cầu gì khác.
Thì theo nguyên tắc tòa án phải lập biên bản hòa giải thành và sau đó ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thế nhưng tòa án nhân dân huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh đã không thực hiện điều đó mà lại đưa vụ án ra xét xử bởi lẽ nội dung thỏa thuận của hai đương sự trong vụ án này là trái pháp luật nhằm mục đích lẫn tránh nghĩa vụ thi hành án, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên được thi hành án mà Chi cục Thi hành án đang thụ lý giải quyết
Hội đồng xét xử xét thấy theo các tài liệu về việc cấp giấy chứng nhận quyền sự đất cho các bên đương sự và các tài liệu khác mà tòa án thu thập được thì từ thời điểm năm 1994 khi làm đơn đăng ký quyền sử dụng ruộng đất để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phía bà Võ Thị Tiếng chỉ đăng ký kê khai các thửa 192 (diện tích 447m2), thửa 193 (diện tích 3450m2) tờ bản đồ số 11 và thửa 728 (diện tích 1705m2), thửa 729 (diện tích 262 m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh và đã được Uy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 780/QSDĐ ngày 16/06/1995. Tại thời điểm đó bà Tiếng không đăng ký kê khai thửa 727(diện tích 332m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh 
Việc làm đơn đăng ký quyền sử dụng ruộng đất để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 727(diện tích 332m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh vào năm 1994, cùng thời điểm bà Tiếng làm đơn đăng ký quyền sử dụng ruộng đất các thửa 192 (diện tích 447m2), thửa 193 (diện tích 3450m2) tờ bản đồ số 11 và thửa 728 (diện tích 1705m2), thửa 729 (diện tích 262 m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh, là do ông Nguyễn Văn Pháp đại diện hộ bà Trần Thị Kim Anh thực hiện. Ông Pháp sau đó đã được Uy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 757/QSDĐ ngày 16/06/1995
Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hai hộ gia đình bà Võ Thị Tiếng và bà Trần Thị Kim Anh đã được Uy ban nhân xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh và Uy ban nhân dân huyện Bình Chánh tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, trong đó có việc niêm yết công khai danh sách các hộ được cấp giấy chứng nhận vào thời điểm đó. Hộ gia đình ông Pháp, bà Kim Anh đến tháng 11 năm 1995 còn được cấp sổ hộ khẩu gia đình số 160014310 cho căn nhà số D5/43 ấp 4, xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh của gia đình mình xây dựng trên phần đất thuộc thửa 727(diện tích 332m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh
Đến năm 2002 khi thu đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cả bà Tiếng và ông Pháp đều được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới vào cùng thời điểm tháng 6 năm 2002
Quá trình sử dụng nhà – đất giữa bà Tiếng và bà Kim Anh từ năm 1994 đến năm 2008 không có tranh chấp. Khi làm đơn đăng ký quyền sử dụng ruộng đất để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 727(diện tích 332m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh vào năm 1994 ông Pháp cũng ghi rõ do mẹ là Võ Thị Tiếng cho. Điều này chứng tỏ phần đất thuộc thửa 727(diện tích 332m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh của gia đình ông Nguyễn Văn Pháp kê khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là có sự đồng ý của hộ bà Võ Thị Tiếng và hộ gia đình bà Võ Thị Tiếng biết rất rõ sự việc vì đã không tiến hành việc kê khai phần đất trên chứ không phải đến năm 2008 khi Chi cục thi hành án tiến hành cưỡng chế thi hành án thì bà Tiếng mới biết
            Gia đình ông Pháp, bà Kim Anh sử dụng hợp pháp phần đất trên        , sau đó làm ăn thua lỗ phải vay mượn nhiều người nhưng không trả được, trong đó có trường hợp bà Kim Anh phải thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số để vay nợ. Khi đến hạn phải thi hành việc trả nợ, cơ quan thi hành án huyện yêu cầu tự nguyện thi hành thì bà không thực hiện cố tình lẫn tránh kéo dài kể cả việc trình bày phần nhà đất mình đang sử dụng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gây khó khăn cho cơ quan thi hành án trong việc thi hành, làm thiệt hại đến quyền lợi của người được thi hành án (trong đó có những bản án có hiệu lực từ năm 1999). Khi cơ quan thi hành án thu thập được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ bà Kim Anh do ông Nguyễn Văn Pháp đứng tên trên giấy từ bà Nguyễn Thị Kim Nga là người được thi hành án, thì bà Võ Thị Tiếng và bà Trần Thị Kim Anh mới bắt đầu tiến hành việc tranh chấp đòi lại phần đất thửa 727(diện tích 332m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh mà bà Tiếng đã cho bà Kim Anh hợp pháp từ trước đó.
Tất cả những tài liệu chứng cứ mà tòa án thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án đã chứng minh phần đất thửa 727(diện tích 332m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh nguồn gốc sử dụng trước năm 1993 là của bà Võ Thị Tiếng là mẹ của bà Trần Thị Kim Anh. Bà Võ Thị Tiếng đã cho con gái mình bà Trần Thị Kim Anh phần đất trên từ trước năm 1994 là thời điểm bà Tiếng tiến hành làm đơn kê khai đăng ký quyền sử dụng ruộng đất để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì lẽ đó nên tại thời điểm năm 1994 khi làm đơn đăng ký quyền sử dụng ruộng đất bà Tiếng đã không kê khai phần đất này và để cho ông Pháp chồng bà Kim Anh đại diện hộ bà Kim Anh đứng ra đăng ký.
Việc tặng cho giữa bà Tiếng và bà Kim Anh đã hoàn thành qua việc bà Kim Anh đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất thuộc thửa 727(diện tích 332m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh, công nhận quyền sử dụng hợp pháp phần đất trên cho bà. Bà Kim Anh và các thành viên trong hộ mình đã sử dụng hợp pháp, liên tục từ năm 1994 cho đến nay, không có sự tranh chấp hay phản đối nào từ phía các thành viên trong hộ bà Nguyễn Thị Tiếng. Việc tiến hành thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình bà Kim Anh đối với phần đất trên là đúng pháp luật, bà Tiếng không chứng minh được việc bà Kim Anh đã có hành vi gian dối hay do bà bị nhầm lẫn mà bà Kim Anh có được quyền sử dụng phần đất bà đang tranh chấp để đòi lại
 Về phía bà Kim Anh mặc dù phần đất thuộc thửa 727 (diện tích 332m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ bà Tiếng là mẹ của bà cho, nhưng phần đất trên đã được nhà nước công nhận quyền sử dụng, chiếm hữu hợp pháp cho hộ gia đình bà. Quyền sử dụng hợp pháp này của hộ gia đình bà được Nhà nước và pháp luật bảo vệ.
Theo qui định của pháp luật dân sự hộ gia đình bà Kim Anh không phải là chủ sở hữu đối với phần đất trên nhưng có các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt nhưng phải theo qui định của pháp luật. Theo đó thì với quyền sử dụng phần đất thửa 727 (diện tích 332m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh hộ gia đình bà Kim Anh có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho quyền sử dụng phần đất cho người khác nhưng phải theo qui định của pháp luật. Với những qui định này thì hộ gia đình bà Kim Anh hoàn toàn có quyền tặng, cho phần đất này cho phía bà Tiếng.
Trong vụ án này mặc dù bà Kim Anh đại diện cho hộ gia đình mình từ bỏ quyền sử dụng hợp pháp phần đất thửa 727 (diện tích 332m2) tờ bản đồ số 10 bộ địa chính xã Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh mà nhà nước cấp cho mình thông qua việc đồng ý trả quyền sử dụng phần đất này cho bà Tiếng. Thực hiện quyền định đoạt theo qui định của pháp luật đối với quyền sử dụng đất của mình, tuy nhiên quyền định đoạt này của bà Kim Anh đã vi phạm các qui định, điều cấm của pháp luật. Thông qua việc đồng ý trả lại phần đất trên cho phía hộ gia đình bà Tiếng, bà Kim Anh và bà Tiếng đã thực hiện một giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba. Trong trường hợp này là những người có đơn yêu cầu bà Kim Anh phải thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản vay cho họ tại cơ quan thi hành án.
Mặt khác pháp luật cũng qui định quyền định đoạt của bà Kim Anh cũng đã chấm dứt khi quyền sử dụng phần đất trên đã bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bà thông qua quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế- kê biên quyền sử dụng đất thuộc thửa 727 tờ bản đồ số 10 xã Hưng Long TP. Hồ Chí Minh của hộ ông Pháp và bà Kim Anh của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh
Hội đồng xét xử xét thấy việc tòa án không lập biên bản hòa giải thành và sau đó ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khi cả hai bên bà Tiếng và bà Kim Anh đã thỏa thuận giải quyết được việc tranh chấp mà lại đưa ra xét xử là có căn cứ.
Cùng với việc khởi kiện đòi lại phần đất thuộc thửa 727, tờ bản đồ số 10 có diện tích 332m2 tọa lạc tại Hưng Long, huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh, phía bà Tiếng cũng cho rằng trên phần đất trên có căn nhà D5/43 ấp 4, xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh gia đình ông Pháp, bà Kim Anh đang ở là do bà Tiếng cho tiền bà Kim Anh xây dựng. Theo bản vẽ hiện trạng vị trí do trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên Môi trường TP. Hồ Chí Minh lập ngày 14/10/2010 bao gồm các vị trí (2), (3), (4). Bà Kim Anh cũng xác nhận và đồng ý trả lại cả nhà và đất cho phía bà Tiếng. Tuy nhiên, cả bà Tiếng và bà Kim Anh không chứng minh được số tiền bà Tiếng cho bà Kim Anh xây dựng nhà vào năm nào? Số tiền cụ thể là bao nhiêu? Đồng thời cũng có các giấy tờ chứng minh cho việc cho tiền này. Mặc khác, việc tặng cho này cũng đã hoàn thành nên việc bà Tiếng yêu cầu bà Kim Anh phải trả lại là không có căn cứ
Từ những lý lẽ đã viện dẫn trên nghĩ nên bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
            3. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí. Cụ thể án phí phải chịu trên mức giá trị tranh chấp theo biên bản định giá ngày 10/03/2011 thì giá đất là 1.500.000 đồng/1m2, tương ứng với diện tích 332m2 thì giá trị quyền sử dụng đất là 498.000.000 đồng (Bốn trăm chín mươi tám triệu đồng). Giá trị xây dựng là 182.509.600 đồng (một trăm tám mươi hai triệu năm trăm lẻ chín ngàn sáu trăm đồng) tổng cộng là 680.509.600 đồng (sáu trăm tám mươi triệu năm trăm lẻ chín ngàn sáu trăm đồng)
Hộ bà Võ Thị Tiếng tự chịu chi phí đo vẽ và định giá
            Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 7 Điều 25; điểm a, khoản 1 Điều 33; điểm c khoản 1 Điều 35; Điều131 Bộ luật tố tụng dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2011);
Điều 2, 3 luật đất đai 1993; điều 10, điều 50, điều 136 Luật đất đai 2003.
Điều 122, 127, 129, 173, 183, 192, 198, 234, 248, 249, 251, 255, 256, 261 305 Bộ luật dân sự năm 2005
Căn cứ Nghị Định 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính Phủ qui định về án phí, lệ phí Tòa An,
Tuyên Xử:
-  Bác yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Dũng, bà Võ Thị Tiếng, bà Trần Thị Kim Ánh đại diện hộ gia đình bà Võ Thị Tiếng yêu cầu ông Nguyễn Văn Pháp, bà Trần Thị Kim Anh phải trả lại quyền sử dụng phần đất có diện tích 332m2 thuộc thửa 727 tờ bản đồ số 10 xã Hưng Long TP. Hồ Chí Minh (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 357793 cấp ngày 12/06/2002 cho hộ ông Nguyễn Văn Pháp) và giá trị xây dựng căn nhà có số D5/43 ấp 4, xã Hưng Long huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh nằm trên thửa đất trên (căn cứ bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ – Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 14/10/2010)
Về án phí: Bà Trần Thị Kim Anh, ông Nguyễn Văn Pháp không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Võ Thị Tiếng, ông Võ Văn Dũng, bà Trần Thị Kim Ánh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 21.610.192 đồng (hai mươi mốt triệu sáu trăm mười ngàn một trăm chín mươi hai đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 007507 ngày 26/05/2009 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh TP.HCM;  bà Võ Thị Tiếng, ông Võ Văn Dũng, bà Trần Thị Kim Ánh còn phải nộp 18.110.192 đồng (Mười tám triệu một trăm mười ngàn một trăm chín mươi hai đồng) 
Bà Võ Thị Tiếng, ông Võ Văn Dũng, bà Trần Thị Kim Ánh tự chịu chi phí đo vẽ và định giá
Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông Trần Tấn Thành và bà Nguyễn Thị Nuôi, Bà Phạm Thị Chanh, Bà Nguyễn Thị Kim Nga, Ông Trần Văn Diệu, Ông Lại Hữu Thiện, Ông Trần Văn Cảo và bà Trình Thị Nỉ vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai tại địa phương.

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 1 phiếu bầu

Hỏi đáp pháp luật

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây