Con dâu có được thừa kế của bố mẹ chồng không ?

Câu hỏi:
Ông bà nội tôi có ba người con (hai trai, một gái) và có một số diện tích đất thổ cư (đã được cấp sổ đỏ đứng tên bà nội tôi). Vì bố tôi là con út nên khi ông nội tôi mất bà nội tôi ở với bố tôi. Đến tháng 3/1994 thì bà nội mất. Sau đó bố tôi cũng qua đời. Hỏi: mẹ tôi có được thừa kế đối với diện tích đất này không? Việc chuyển quyền sử dụng đất từ bà nội tôi sang mẹ tôi phải làm thủ tục như thế nào? Bác và cô tôi có quyền lợi gì đối với diện tích đó không?
Trả lời:
Vì diện tích đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà nội của ông nên là tài sản của bà nội và bà có quyền định đoạt theo quy định tại Điều 201 Bộ luật dân sự(1). Căn cứ Điều 253 Bộ luật dân sự(2) về xác lập quyền sở hữu do được thừa kế như sau: “Người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản thừa kế theo quy định tại phần thứ tư của Bộ luật này”. Vì mẹ ông là con dâu không phải là người thừa kế theo quy định của pháp luật do đó nếu bà nội ông mất có để lại di chúc cho mẹ ông hưởng tài sản thì mẹ ông có quyền sở hữu diện tích đất này theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự(3): “Cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì giấy tờ về thừa kế là một trong các giấy tờ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất...”.
Do đó, di chúc của bà nội là căn cứ để chuyển quyền sử dụng đất từ bà nội sang mẹ của ông. Vì quyền sử dụng đất là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu nên hiện nay mẹ ông muốn sang tên từ bà của ông sang tên mình thì phải làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nếu bà nội mất không để lại di chúc thì việc thừa kế sẽ theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(4) thì những người con của bà nội ông (gồm cả bác và cô ông) thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần di sản bằng nhau. Tuy nhiên việc yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật phải căn cứ vào thời hiệu.
Tại Điều 648 Bộ luật dân sự(5) thì thời hiệu yêu cầu chia thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm bà nội ông mất). Theo dữ kiện ông nêu thì bà nội mất tháng 3/1994 nên đến tháng 3/2004 sẽ hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế.
Hiện nay, diện tích đất này vẫn do gia đình ông quản lý sử dụng nay muốn chuyển quyền sử dụng đất cho mẹ ông thì phải có sự thoả thuận giữa mẹ ông, người bác và người cô còn sống theo quy định tại Điều 684 Bộ luật dân sự(6) quy định về họp mặt những người thừa kế bao gồm: người bác, người cô của ông, mẹ ông và ông (vì trong trường hợp này mẹ ông và ông có quyền hưởng kỷ phần thừa kế của bố ông).
Điều 684 Bộ luật dân sự quy định:
“1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a. Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b. Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”. 
Nếu người bác và cô của ông đồng ý cho mẹ ông hưởng toàn bộ di sản thì mẹ ông sẽ được đứng tên quyền sở hữu nhà đất này. Còn nếu bác và cô của ông yêu cầu chia theo pháp luật thì mẹ của ông chỉ được đứng tên phần được chia tương ứng với kỷ phần của bố ông. Trong cả hai trường hợp thì những người đồng thừa kế phải lập biên bản về việc thoả thuận này và biên bản này được coi là giấy tờ hợp pháp về thừa kế để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp không tự thoả thuận được thì những người đồng thừa kế (hoặc mẹ ông) có quyền yêu cầu Toà án chia theo pháp luật theo như phân tích nêu trên.
----------------------------------------------
(1) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(2) Điều 245 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(6) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0909 160684 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Gọi 0909160684 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây