Tư vấn luật nhà đất| Dịch vụ nhà đất

Bạn đang ở chuyên mục Hỏi đáp pháp luật trực tuyến. Đây là chuyên mục tư vấn trực tuyến miễn phí phục vụ cộng đồng. Các câu hỏi gửi qua chuyên mục sẽ được các luật sư biên tập và đăng tải trên website chúng tôi. Các câu hỏi trình bày không rõ ý, sai chính tả sẽ bị từ chối. Bạn sẽ nhận được câu trả lời trong khoảng từ 2-5 ngày. Nếu cần trả lời khẩn cấp, vui lòng gọi tổng đài tư vấn 1900 6279. Xin cảm ơn!
......................................................................................................................................


In ra
Lưu bài này

Thừa kế không theo nội dung di chúc

Câu hỏi:
Vợ chồng tôi có bốn con: hai trai, hai gái. Chúng tôi có một thửa đất đã được thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất ở. Trên thửa đất này tôi đã cho hai con trai xây dựng nhà kiên cố để vợ chồng tôi và gia đình hai con trai cùng ở. Hỏi: Vợ chồng tôi làm di chúc chuyển quyền sở hữu nhà ở cho các con, ngoài chữ ký của vợ chồng tôi thì cần chữ ký của các con tôi không? Bản di chúc này cần có xác nhận của cơ quan nào để có hiệu lực pháp lý? Khi nào thì các con tôi được hưởng thừa kế? Nay vợ chồng tôi chỉ di chúc cho hai con trai có được không vì hai con gái đã đi ở riêng và được Nhà nước cấp đất để xây dựng nhà ở rồi?
Trả lời:
Thứ nhất, về quyền của người lập di chúc.
Căn cứ khoản 1, 2 Điều 651 Bộ luật dân sự(1) quy định về quyền của người lập di chúc thì người lập di chúc có các quyền như sau:
“1. Chỉ định người thừa kế...
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế”.
Vì ngôi nhà là tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng bà nên vợ chồng bà có quyền định đoạt bằng cách lập di chúc để chuyển quyền sở hữu cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật.
Điều 666 Bộ luật dân sự(2) quy định về di chúc chung của vợ, chồng thì: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Ông bà có thể cùng lập di chung để lại tài sản cho các con mà không cần phải có chữ ký của các con vì ngôi nhà này là tài sản chung của vợ chồng bà.
Điều 653 Bộ luật dân sự(3) quy định hình thức di chúc bằng văn bản bao gồm các loại:
“1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
 2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
 3. Di chúc bằng văn bản có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
 4. Di chúc bằng văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước”.
Như vậy nếu ông bà đang khoẻ mạnh minh mẫn thì có thể tự mình lập di chúc mà không cần phải có người làm chứng hoặc có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, về hiệu lực của di chúc.
Căn cứ khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự(4) thì di chúc chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế tức là thời điểm người để lại di sản mất.
Khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này(5)”.  
Vì ngôi nhà là tài sản chung của vợ chồng và cả hai vợ chồng bà cùng lập di chúc nên căn cứ Điều 671 Bộ luật dân sự(6) hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ chồng bà sẽ được xác định như sau: “Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”.
Thứ ba, về quyền của hai người con gái không được hưởng thừa kế theo di chúc.
Căn cứ dữ kiện bà nêu thì vợ chồng bà chỉ lập di chúc cho hai người con trai hưởng di sản thừa kế còn không có hai người con gái hưởng. Nếu hai người này có yêu cầu được hưởng mà họ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 672 Bộ luật dân sự(7) thì họ vẫn được hưởng một phần bằng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật.
Điều 672 Bộ luật dân sự quy định: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng 2 phần 3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2 phần 3 suất đó, trừ khi họ là những người từ chối hưởng di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 645 hoặc khoản 1 Điều 646 của Bộ luật này(8):
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”.  
Giả sử sau khi người lập di chúc mất đi mà có tranh chấp về di sản thừa kế cụ thể hai người con gái không được hưởng thừa kế mà yêu cầu được hưởng một phần tài sản của bố mẹ để lại. Cụ thể nếu họ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 điều 672 Bộ luật dân sự năm 1995 thì mỗi người sẽ được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu họ.
-----------------------------------------------------
(1) Khoản 1, 2 điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di chúc bằng văn bản bao gồm:
1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
3. Di chúc bằng văn bản có công chứng;
4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực".
(4) Khoản 1 điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Khoản 2 điều 81 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Tuỳ từng trường hợp toà án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này".
(6) Điều 668 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết".
(7) Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Những người sau đây vẫn được hưởng di sản bằng 2/3 suất của 1 người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3 suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động".
(8) Điều 642 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế. Sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế";
Khoản 1 điều 643 Bộ luật dân sự năm 2005.

Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 1900 6279 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

Nơi đặt câu hỏi
 
Mọi vướng mắc về vấn đề pháp lý liên quan đến pháp luật các lĩnh vực pháp luật các anh/chị có thể liên hệ qua số 0909 160684 (Ls Phụng) hoặc 097 88 456 17 (Ls Huy) để hẹn gặp luật sư và báo phí dịch vụ. Chúng tôi tư vấn và nhận hồ sơ tại nhà đối với khách hàng sử dụng dịch vụ các quận nội thành TP.HCM

Bộ đếm

  • Đang truy cập: 246
  • Khách viếng thăm: 244
  • Máy chủ tìm kiếm: 2
  • Hôm nay: 60782
  • Tháng hiện tại: 2881032
  • Tổng lượt truy cập: 26438305

Thông tin liên hệ

VĂN PHÒNG TẠI  TP HỒ CHÍ MINH
A-10-11 Centana Thủ Thiêm, số 36 Mai Chí Thọ, Phường An Phú, Q.2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel/Fax: 028. 38 991104 - 35 126565
Di động: 0909 160684 - 0978845617
Email:  info@luatsuhcm.com

ĐẠI DIỆN TẠI HÀ NỘI

Tầng 18, Tòa nhà N105, Ngõ 105 Đường Nguyễn Phong Sắc, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
Cell: 
 0967388898
Email: lschinh@luatsuhcm.com

Quảng cáo


Dịch vụ