Tranh chấp đòi nhà cho thuê - bản án
Thứ tư - 13/01/2016 02:46
Nội dung vụ án:
Các nguyên đơn - ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Kh, bà Nguyễn Thị K, ông Nguyễn Ngọc L, bà Nguyễn Ngọc Ch, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thanh B, bà Nguyễn Thị Việt Ph, ông Nguyễn Việt T, ông Nguyễn Ngọc Q, ông Nguyễn Ngọc V cùng trình bày:
Nguồn gốc hai căn nhà số 94 và 96 phố KM - quận BĐ - thành phố H là của cụ Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1902 chết năm 1989 và vợ là cụ Nguyễn Thị Q, sinh năm 1905 chết năm 1974. Hai cụ sinh được 03 người con là ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị X, ông Nguyễn Ngọc C. Ông A chết năm 1984 có vợ là bà Nguyễn Thị Kh và 05 người con là bà Nguyễn Thị K, ông Nguyễn Ngọc L, bà Nguyễn Thị Ngọc Ch, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thanh B. Bà X chết năm 1973, chồng bà X là ông Nguyễn Văn Y chết năm 2003, có 04 người con là bà Nguyễn Thị Việt Ph, ông Nguyễn Việt T, ông Nguyễn Ngọc Q, ông Nguyễn Ngọc V.
Năm 1943, cụ M và cụ Q đã mua được diện tích nhà đất, trước đây là số nhà 230 và 232 phố ST (nay là 94 và 96 phố KM) - quận BĐ - thành phố H (giấy bằng khoán điền thổ số 194 cấp ngày 16/6/1944, thửa 880, khu VP) diện tích 150m2.
Khoảng năm 1958, bà Nguyễn Thị L cùng chồng là ông Nguyễn Thế Đ đến xin ở thuê gian nhà lợp ngói phía trong nhà số 230 phố ST (nay là số 94 KM), diện tích trên 20m2 với giá thuê lúc đó là 7đồng/tháng, đến năm 1984 giá thuê là 20 đồng/tháng. Thời gian này, việc cho thuê hai bên chỉ thoả thuận bằng miệng. Gian nhà phía ngoài mặt đường của số nhà này cụ M cho gia đình ông Nguyễn Văn D làm nghề sửa xe đạp thuê 02 buồng diện tích là 30m2 với tiền thuê nhà là 30 đồng/tháng.
Lúc cụ M còn sống, việc thu tiền nhà chỉ ghi biên lai bằng tay, thường thì vài tháng trả một lần. Sự việc vẫn tiếp diễn như vậy cho đến cuối năm 1989 thì cụ M mất. Từ đó đến nay, bà N không trả tiền thuê nhà nữa.
Đến tháng 3/1997, Nhà nước mở đường CG - HV, phần diện tích nhà bà N thuê ra mặt đường. Lợi dụng lúc Nhà nước giải phóng mặt bằng, gia đình bà N đã dỡ mái ngói nhà đang ở thuê và dựng các khung sắt lên để làm lại nhà và gác xép. Ngay thời gian này, gia đình các ông bà đã gặp và trao đổi để gia đình xây dựng lại nhà và làm hợp đồng thuê nhà mới với gia đình bà N, nhưng gia đình bà N không nghe. Các năm sau, gia đình bà N tự ý sửa chữa, lát sàn, làm cửa sắt vào ngày 14/11/2002 cũng không trao đổi bàn bạc với gia đình bên cho thuê.
Năm 2003, gia đình các ông bà đã hai lần mời bà N sang để trao đổi về nhà cửa và làm hợp đồng thuê nhà mới, nếu không sẽ đòi lại nhà. Bà N trả lời là muốn kiện đâu thì kiện.
Ngày 24/01/2005, gia đình các ông bà đã làm thông báo đòi nhà cho thuê do phía bên thuê không chịu trả tiền thuê nhà, thông báo được giao cho gia đình bà N. Sau đó, sự việc được tiến hành hoà giải tại Cụm dân cư số 10 ngày 20/7/2005 nhưng gia đình bà N không ai tới. Hoà giải tại UBND phường KM lần thứ I ngày 05/8/2005, gia đình các ông bà đề nghị hỗ trợ 100.000.000 đồng để bà N mua nhà khác nhưng gia đình nhà bà N không nhất trí và không ký. Hoà giải lần thứ II tại UBND phường KM ngày 03/11/2006, gia đình các ông bà vẫn đề nghị hỗ trợ 100.000.000 đồng, gia đình bà N xin mua lại với giá 50% giá thị trường nhưng gia đình các ông bà không đồng ý.
Các ông bà bên cho thuê nhà nhất trí với kết quả định giá nhà số 94 KM của Hội đồng định giá ngày 22/4/2008, không yêu cầu định giá lại và tự nguyện thanh toán toàn bộ giá trị xây dựng nhà trên cho bên gia đình bà N mặc dù việc sửa chữa nhà của gia đình bà N không được sự đồng ý của gia đình bên cho thuê và trong kiến trúc nhà số 94 KM hiện nay có cả kiến trúc nhà cũ của gia đình các ông bà.
Gia đình các ông bà hiện rất đông con cháu, người phải đi thuê chỗ ở, người phải đi thuê cửa hàng để làm ăn sinh sống nên gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi nhà đất của ông cha để lại gia đình bà N lại cố tình chiếm dụng không trả cho gia đình các ông bà.
Vì vậy, ngày 15/6/2007 các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết đòi lại nhà số 94 KM mà hai cụ M và Q đã cho bà N thuê năm 1958, buộc bà N trả lại nhà số 94 KM cho gia đình các nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Bên nguyên đơn tự nguyện thanh toán số tiền 173.264.000 đồng giá trị xây dựng tại số 94 phố KM như kết quả định giá ngày 22/4/2008 và 6.400.000 đồng mà gia đình bà N lợp mái tôn sau thời gian định giá ngày 22/4/2008, tổng cộng là 179.664.000 đồng cho gia đình bà N khi gia đình bà N trả lại nhà cho nguyên đơn. Phía nguyên đơn không yêu cầu gia đình bà N thanh toán tiền thuê nhà 94 phố KM từ năm 1989 cho đến nay.
Bị đơn ông Nguyễn Thế H - con trai bà N, đồng thời là người được bà Nguyễn Thị N uỷ quyền trình bày:
Bố ông H là ông Nguyễn Thế Đ chết năm 2001, mẹ ông là bà Nguyễn Thị N già yếu (bà N uỷ quyền cho ông H). Gia đình ông H ở số 94 phố KM (tức số 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố H từ năm 1958. Nhà lúc đầu là cái bếp, sau bố mẹ và vợ chồng ông sửa chữa nhiều lần, hiện là nhà xây gạch đỏ, lợp tôn, gác xép gỗ thường có diện tích bằng 12m2, diện tích nhà là 24m2 cho đến nay không có gì thay đổi về diện tích. Diện tích này trước đây ở trong ngõ, đến năm 1997, Nhà nước mở đường, diện tích này ra mặt đường.
Về giấy tờ nhà, gia đình ông H không có một loại giấy tờ nào mà chỉ có hộ khẩu của gia đình tại diện tích này. Hiện tại gia đình ông có hai hộ khẩu: hộ thứ nhất chủ hộ là bà Nguyễn Thị N (bà N là mẹ ông, hộ độc thân); hộ thứ hai chủ hộ là ông H với 8 nhân khẩu khác gồm vợ, con và các cháu ông.
Toàn bộ việc sửa chữa nhà là công sức của vợ chồng ông, ông hoàn toàn nhất trí với kết quả định giá của Hội đồng định giá ngày 22/4/2008, không yêu cầu định giá lại. Từ ngày 22/4/2008 cho đến nay, gia đình ông H có làm lợp thêm mái tôn hết 6.400.000 đồng nhưng không có yêu cầu gì về số tiền trên. Ngoài ra, gia đình ông H không có sửa chữa gì khác.
Gia đình ông C có thông báo đòi nhà cho thuê đối với gia đình ông và UBND phường KM có gọi ông H ra để hoà giải. Do phía gia đình ông H bị sức ép ông C và không hiểu pháp luật nên ông H có ký vào biên bản hoà giải tại phường với phương án là 50 : 50, mỗi bên được hưởng 1/2 giá trị diện tích nhà đất gia đình ông đang ở.
Để tiện cho việc ăn ở ổn định, ông H đồng ý thanh toán cho bên ông C khoản tiền khoảng 1 tỷ đồng, bằng 1/2 giá trị định giá nhà tại số 94 phố KM để gia đình ông hoàn tất giấy tờ nhà đất tại đây.
Ông H xác định, mặc dù gia đình ông không có giấy tờ gì tại số 94 phố KM (tức số 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố H, nhưng cũng không ở thuê hay ở nhờ nhà của ai cả. Gia đình ông không đồng ý yêu cầu đòi nhà cho thuê của phía nguyên đơn.
Vợ và hai con ông đã đến tuổi trưởng thành, đã nhận được giấy báo của Toà án do ông giao tận tay nhưng không đến Toà vì nguyện vọng của họ là nhất trí với ý kiến của ông và uỷ quyền cho ông.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Biên bản hoà giải ngày 05/8/2005 và ngày 03/11/2006 của UBND phường KM tổ chức có nội dung các bên nguyên đơn và bị đơn trong vụ án đều xác định giữa họ có quan hệ thuê nhà.
- Bằng khoán điền thổ số 194 cấp ngày 16/6/1944 khu VP, thửa số 880, diện tích 150m2 mang tên cụ Nguyễn Ngọc M và vợ là cụ Nguyễn Thị Q.
- Công văn số 5054/TNMTND-TCHC ngày 19/10/2007 của Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H trả lời ông C, xác định: Nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 KM, quận BĐ, thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
- Giấy phép xây dựng, sơ đồ thửa đất, các biên lai nộp thuế thổ trạch và các giấy tờ khác liên quan đến diện tích nhà đất tại số 94 và 96 phố KM (tức số 230 và 232 phố ST cũ) đứng tên cụ M.
Toà án nhân dân thành phố H có công văn hỏi nguồn gốc nhà đất trên gửi Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H và gửi UBND thành phố H. Ngày 17/6/2008, UBND thành phố H có Công văn số 3813/UBND-NNĐC yêu cầu Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H và Sở Xây dựng thành phố H xem xét trả lời Toà án thành phố H.
- Công văn số 1004/TNMTND-TCHC ngày 19/3/2008 và Công văn số 690/TNMT-TTCNTTTNMT ngày 09/10/2008 của Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H trả lời Toà án thành phố H, xác định: nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM, quận BĐ, thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
- Công văn số 1922/XD-PC ngày 17/10/2008 của Sở Xây dựng thành phố H trả lời Toà án thành phố H, xác định: Nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM - quận BĐ - thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
Theo Quyết định số 506/QĐ-UB ngày 30/6/1997 của UBND thành phố H và phương án đền bù giải phóng mặt bằng mở đường HV - CG của Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng UBND quận BĐ ngày 17/8/1996 thì nhà số 230 và 232 phố ST diện tích bị giải toả là 102,94m2 (gồm các hộ ông C, ông Y, bà Kh chủ nhà và các hộ thuê nhà ông H, bà V) tại 232 phố ST và hộ thuê ông D tại 230 phố ST; hộ bà N, ông H ở phía trong nhà 230 phố ST không nằm trong diện giải toả. Như vậy, diện tích còn lại của hai số nhà trên sau giải toả là: 150m2 - 102,94m2 = 47,06m2.
Phần diện tích còn lại của nhà 232 phố ST, gia đình ông C đang sử dụng đã làm sổ đỏ có diện tích 20,92m2, nên phần diện tích còn lại tại số 230 phố ST (do gia đình bà N, ông H đang ở) sau giải toả là 47,06m2 - 20,92m2 = 26,14m2. Theo kết quả định giá ngày 22/4/2008 của Toà án thành phố H xác định, diện tích gia đình bà N, ông H đang sử dụng có diện tích là 24,48m2. Toàn bộ nội dung liên quan đến quá trình giải phóng mặt bằng năm 1997 tại số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM đều do các đồng thừa kế của cụ M, cụ Q giải quyết với các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Bình luận:
* Về áp dụng pháp luật nội dung để giải quyết tranh chấp:
Vụ án đòi nhà cho thuê giữa các nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Kh, ông Nguyễn Ngọc L và các nguyên đơn khác đối với bị đơn là bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Thế H, căn cứ vào các tình tiết của vụ án, qua lời khai thống nhất của các bên đương sự thì thời điểm xác lập quan hệ dân sự (quan hệ hợp đồng thuê nhà ở) giữa hai bên là vào năm 1958. Đây là giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu nhà tư nhân được xác lập trước ngày 01/7/1991, nên áp dụng luật nội dung để giải quyết tranh chấp là các quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999.
* Về quan hệ pháp luật tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn:
Theo các nguyên đơn, nguồn gốc nhà, đất hiện do gia đình ông H đang quản lý, sử dụng là của cụ M, cụ Q. Cụ M, cụ Q chết các thừa kế của cụ yêu cầu đòi nhà các cụ đã cho gia đình ông H thuê. Mặc dù phía bị đơn ông H không thừa nhận gia đình ông là người thuê nhà của phía nguyên đơn, cũng như phía nguyên đơn không xuất trình được hợp đồng thuê nhà giữa cụ M, cụ Q và ông Đ, bà N nhưng căn cứ vào các biên bản hoà giải ngày 05/8/2005 và ngày 03/10/2006 của UBND phường KM tổ chức, các bên nguyên đơn và bị đơn trong vụ án đều xác định giữa họ có quan hệ thuê nhà nên có căn cứ xác định gia đình bà N, ông H là người thuê nhà của các nguyên đơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định tại điểm b, c khoản 6 Mục I Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điểm b, c khoản 6 Mục I Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao
quy định:
6. “Hợp đồng thuê nhà ở” là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê nhà ở giao nhà ở cho bên thuê để sử dụng (có thời hạn hoặc không có thời hạn) và nhận tiền thuê, còn bên thuê nhà ở được sử dụng nhà ở đó để ở và phải trả tiền thuê nhà ở theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Được coi là hợp đồng thuê nhà ở khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có hợp đồng bằng văn bản (có thể có xác nhận hoặc không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền);
b) Người ở tại nhà ở đó chứng minh được là họ đang sử dụng nhà ở đó theo quan hệ thuê nhà ở;
c) Một trong những người thuộc một trong các điểm a, b, c, khoản 2 Mục I Thông tư này chứng minh được rằng họ cho thuê nhà ở đó mà không phải là họ bán, tặng cho, cho ở nhờ nhà ở đó.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Mục II Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 quy định: Trong trường hợp hạn thuê nhà ở không được xác định thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở sau ngày 01/7/2005 nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê ít nhất là ba tháng. Phía nguyên đơn trong vụ án đã có Thông báo đòi nhà cho bên bị đơn ngày 24/01/2005, sau đó hai bên đã hoà giải nhiều lần trong đó có 02 lần hoà giải tại UBND phường KM các ngày 05/8/2005 và ngày 03/10/2006. Như vậy, phía nguyên đơn đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu của pháp luật trong vụ kiện đòi nhà cho thuê đối với phía bị đơn. Từ các tình tiết trên của vụ án, chúng ta xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là tranh chấp hợp đồng thuê nhà ở.
Khoản 5 Điều 3 Mục II Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 quy định:
5. Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở không được xác định trong hợp đồng và các bên không có thỏa thuận khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng; nếu đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2005 mà phát sinh các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều này, thì thực hiện theo quy định tại các điểm đó.
* Về giải quyết yêu cầu của nguyên đơn:
- Về nguồn gốc nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM (số mới) - quận BĐ - thành phố H.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ có đủ cơ sở xác định toàn bộ diện tích nhà đất tại số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM (số mới) - quận BĐ - thành phố H thuộc quyền sở hữu của cụ Nguyễn Ngọc M và vợ là cụ Nguyễn Thị Q, cụ thể:
- Bằng khoán điền thổ số 194 cấp ngày 16/6/1944 khu VP, thửa số 880, diện tích 150m2 mang tên cụ Nguyễn Ngọc M và vợ là cụ Nguyễn Thị Q.
- Công văn số 5054/TNMTND-TCHC ngày 19/10/2007 của Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H trả lời ông C, xác định: Nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 KM, quận BĐ, thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
- Giấy phép xây dựng, sơ đồ thửa đất, các biên lai nộp thuế thổ trạch và các giấy tờ khác liên quan đến diện tích nhà đất tại số 94 và 96 phố KM (tức số 230 và 232 phố ST cũ) đứng tên cụ M.
- Công văn số 1004/TNMTND-TCHC ngày 19/3/2008 và Công văn số 690/TNMT-TTCNTTTNMT ngày 09/10/2008 của Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H trả lời Toà án thành phố H, xác định: Nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM, quận BĐ, thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
- Công văn số 1922/XD-PC ngày 17/10/2008 của Sở Xây dựng thành phố H đã xác định: Nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM - quận BĐ - thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
- Về nội dung phương án đền bù giải phóng mặt bằng mở đường HV - CG của Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng UBND quận BĐ ngày 17/8/1996 đối với nhà số 230 và 232 phố ST (cũ) tức 94 và 96 phố KM (mới) - quận BĐ - thành phố H.
Nhà số 94 và 96 phố KM (số mới) tức số 230 và 232 phố ST (số cũ) trước đây gồm có các hộ gia đình: Tại số nhà số 230 phố ST (94 phố KM) có hai hộ thuê, phía ngoài là hộ ông D, phía trong là gia đình bà N, ông Đ; tại số nhà số 232 phố ST (96 phố KM) có các hộ gồm chủ nhà là hộ ông C, hộ ông Y, hộ bà Kh (hộ bà Kh diện KT2) và các hộ ở thuê là hộ ông H, bà V.
Theo Quyết định số 506/QĐ-UB ngày 30/6/1997 của UBND thành phố H và phương án đền bù giải phóng mặt bằng mở đường HV - CG của Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng UBND quận BĐ ngày 17/8/1996 thì nhà số 230 và 232 phố ST diện tích bị giải toả là 102,94m2 (gồm các hộ ông C, ông Y, bà Kh chủ nhà và các hộ thuê nhà ông H, bà V) tại 232 phố ST và hộ thuê ông D tại số 230 phố ST; hộ bà N, ông H ở phía trong nhà 230 phố ST không nằm trong diện giải toả. Như vậy, diện tích còn lại của hai số nhà trên sau giải toả là: 150m2 - 102,94m2 = 47,06m2.
Phần diện tích còn lại của nhà 232 phố ST, gia đình ông C đang sử dụng đã làm sổ đỏ có diện tích 20,92m2, nên phần diện tích còn lại tại số 230 phố ST (do gia đình bà N, ông H đang ở) sau giải toả là 47,06m2- 20,92m2 = 26,14m2. Theo kết quả định giá ngày 22/4/2008 của Toà án thành phố H xác định, diện tích gia đình bà N, ông H đang sử dụng là 24,48m2. Như vậy, có căn cứ khẳng định toàn bộ diện tích phía gia đình bà N, ông H đang sử dụng nằm trong diện tích nhà số 230 phố ST (cũ) nay là số 94 phố KM - quận BĐ - thành phố H (số mới) có nguồn gốc thuộc quyền sở hữu của cụ M, cụ Q. Điều này phù hợp với ý kiến của ông H xác định gia đình ông ở tại diện tích tranh chấp từ năm 1958, diện tích khoảng 24m2 cho đến nay không có sự thay đổi về diện tích.
Toàn bộ nội dung liên quan đến quá trình giải phóng mặt bằng năm 1997 tại số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM đều do các đồng thừa kế của cụ M, cụ Q giải quyết với Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng UBND quận BĐ và các cơ quan chức năng có thẩm quyền, điều này càng khẳng định quyền sở hữu diện tích các nhà đất trên là của cụ M và cụ Q trước đây và nay là của các đồng thừa kế hợp pháp của các cụ.
Cụ Q chết năm 1974, cụ M chết năm 1989, căn cứ điểm b khoản 2 Mục I Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 xác định những người thừa kế hợp pháp của cụ M và cụ Q là đồng chủ sở hữu nhà số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM - quận BĐ - thành phố H (số mới).
Điểm b khoản 2 Mục I Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC quy định:
b) Người thừa kế hợp pháp nhà ở (người thừa kế có thể trực tiếp giao kết hợp đồng tại thời điểm giao kết hoặc đương nhiên họ là bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ, bên bán, bên tặng cho nhà ở, các bên đổi nhà ở tại thời điểm xảy ra tranh chấp);
Hai cụ M và cụ Q sinh được 03 người con là ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị X, ông Nguyễn Ngọc C. Trong đó, ông A chết năm 1984 có vợ là bà Nguyễn Thị Kh và 05 người con là bà Nguyễn Thị K, ông Nguyễn Ngọc L, bà Nguyễn Thị Ngọc Ch, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thanh B; bà X chết năm 1973, chồng bà X là ông Nguyễn Văn Y chết năm 2003 có 04 người con là bà Nguyễn Thị Việt Ph, ông Nguyễn Việt T, ông Nguyễn Ngọc Q, ông Nguyễn Ngọc V.
Ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Kh, bà Nguyễn Thị K, ông Nguyễn Ngọc L, bà Nguyễn Thị Ngọc Ch, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thanh B, bà Nguyễn Thị Việt Ph, ông Nguyễn Việt T, ông Nguyễn Ngọc Q, ông Nguyễn Ngọc V là các đồng thừa kế hợp pháp của cụ M và cụ Q nên là đồng sở hữu chủ hai ngôi nhà đất tại địa chỉ số230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM - quận BĐ - thành phố H (số mới) của cụ M, cụ Q để lại nên có đủ tư cách nguyên đơn trong vụ án đòi nhà tại 94 phố KM - quận BĐ - thành phố H (tức số 230 phố ST cũ).
Phía gia đình bà N, ông H đang ở số 94 phố KM - quận BĐ - thành phố H (tức số 230 phố ST cũ) theo ông H cho biết không có một loại giấy tờ nào chứng minh quyền sở hữu, sử dụng nhà, đất ngoài hộ khẩu đăng ký thường trú. Thực tế, phía gia đình ông H cũng không xuất trình được giấy tờ tài liệu nào liên quan đến diện tích nhà đất mà gia đình ông H đang ở, nên gia đình bà N, ông H không phải là chủ sở hữu diện tích họ đang ở.
- Xét nội dung công sức sửa chữa xây dựng của bên
bị đơn:
Các bên đương sự trong vụ án đều thống nhất trên cơ sở kiến trúc cũ có sẵn của chủ nhà, bên bị đơn đã nhiều lần tiến hành sửa chữa. Theo kết quả định giá ngày 22/4/2008 của Toà án thành phố H xác định toàn bộ giá trị xây dựng tại diện tích bị đơn đang ở có trị giá là 173.264.000 đồng (các bên đương sự thống nhất kết quả định giá). Do không tách được kiến trúc cũ của bên chủ nhà và kiến trúc do bên bị đơn cải tạo sửa chữa, nên bên nguyên đơn tự nguyện thanh toán toàn bộ số tiền 173.264.000 đồng và số tiền 6.400.000 đồng tiền gia đình ông H lợp mái tôn sau ngày 22/4/2008 cho bên bị đơn khi lấy được nhà. Sự tự nguyện của nguyên đơn phù hợp pháp luật nên được ghi nhận.
- Về việc thanh toán số tiền thuê nhà:
Do các nguyên đơn tự nguyện không yêu cầu gia đình bà N, ông H thanh toán khoản tiền thuê nhà từ năm 1989 cho đến nay. Việc tự nguyện của các nguyên đơn là phù hợp với pháp luật nên được chấp nhận. Vì vậy, gia đình bà N, ông H
không phải thanh toán số tiền thuê nhà từ năm 1989 cho các nguyên đơn.
Từ các phân tích trên, yêu cầu của các nguyên đơn phù hợp với pháp luật nên được chấp nhận.
Từ những phân tích trên, vụ việc có thể được giải quyết như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu đòi nhà cho thuê của của các nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Kh, bà Nguyễn Thị K, ông Nguyễn Ngọc L, bà Nguyễn Ngọc Ch, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thanh B, bà Nguyễn Thị Việt Ph, ông Nguyễn Việt T, ông Nguyễn Ngọc Q, ông Nguyễn Ngọc V (Bà K, bà Ch, bà H, ông B, bà Ph, ông T, ông Q, ông V cùng uỷ quyền cho ông C) đối với bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Thế H tại số 94 phố KM (tức số 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố H.
2. Buộc bà N, gia đình ông H và những người có tên trong hộ khẩu hoặc không có hộ khẩu nhưng thường xuyên sinh sống tại số 94 phố KM (tức 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố Nội phải trả lại toàn bộ diện tích nhà đất tại 94 phố KM (tức số 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố H cho phía các nguyên đơn có tên nêu trên.
3. Ghi nhận sự tự nguyện của phía nguyên đơn có trách nhiệm thanh toán cho phía bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về phía bị đơn do ông Nguyễn Thế H đại diện, giá trị xây dựng tại số 94 phố KM (tức số 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố H là 179.664.000 đồng.
4. Ghi nhận sự tự nguyện của phía nguyên đơn (gồm các người có tên trên) không yêu cầu gia đình bà N, ông H thanh toán khoản tiền thuê nhà từ năm 1989 cho đến nay.
Chúng tôi trên mạng xã hội