Tranh chấp tài sản chung ở nước ngoài
Chủ nhật - 02/10/2016 22:14
Nội dung vụ án: Nguyên đơn - chị Nguyễn Mai Kh trình bày:
Chị Kh kết hôn với anh Nguyễn Đức Q trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND quận HK ngày 06/12/1996. Trong thời gian chung sống, anh chị không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm. Năm 2001, cả gia đình sang Ba Lan sinh sống và làm việc, tình trạng hôn nhân không được cải thiện. Đến năm 2003, vợ chồng sống ly thân, anh Q trở về Việt Nam sinh sống cho đến nay. Hiện tại, chị vẫn đang cư trú, làm ăn sinh sống tại Ba Lan, nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Toà giải quyết cho chị được ly hôn anh Q.
Về con: Vợ chồng anh chị có 1 con chung là Nguyễn Hồng K (trai) sinh ngày 18/7/1997. Cháu hiện đang ở Ba Lan cùng chị Kh. Nguyện vọng của chị là muốn được nuôi con, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng và cháu K cũng có đơn xin được ở với mẹ
Về tài sản chung: Không có. Không yêu cầu Toà giải quyết.
Về nhà ở: Xin tự thoả thuận. Không yêu cầu Toà giải quyết.
Do điều kiện công tác không về được nên chị Kh đề nghị Toà án giải quyết và xét xử vắng mặt.
Bị đơn - anh Nguyễn Đức Q trình bày:
Về thời gian và điều kiện kết hôn như chị Kh trình bày. Vợ chồng sống hạnh phúc cho đến năm 2004, do sức khoẻ của anh Q bị giảm sút và hoàn cảnh gia đình có một mẹ già không có người chăm sóc nên anh phải về nước chăm sóc mẹ và chữa bệnh cho bản thân còn chị Kh vẫn ở lại Ba Lan để làm ăn. Nay chị Kh làm đơn xin ly hôn, anh tôn trọng ý kiến của chị Kh. Nhưng chưa nhất trí ly hôn khi chưa thoả thuận xong về tài sản.
Về con: Vợ chồng anh chị có 1 con chung như chị Kh trình bày, anh Q đồng ý với yêu cầu của chị Kh và nguyện vọng của cháu K.
Về tài sản chung của vợ chồng:
- Số tài sản tại Việt Nam gồm:
+ Nhà 1A - NC - nguồn gốc là của ông Nguyễn Văn R (bố đẻ anh Q) được Xí nghiệp quản lý nhà HBT phân năm 1989 cho một nhà cấp 4, diện tích = 12m2. Công trình phụ dùng chung. Sau khi kết hôn anh Q và chị Kh về đây ở. Trong quá trình ở, năm 2000 anh chị đã phá nhà cũ và xây lại thành nhà 2 tầng như hiện tại. Hiện anh Q đang làm thủ tục để mua nhà theo Nghị định số 61-CP. Nhà này hiện do anh Q quản lý, hợp đồng thuê nhà đứng tên anh và chị Kh. Khi ly hôn anh Q yêu cầu chia cho anh được hưởng toàn bộ giá trị xây dựng và giá trị quyền thuê nhà của nhà 1A - NC theo hợp đồng thuê nhà số 140/ĐM-HĐNC ngày 05/9/1998 của Xí nghiệp quản lý nhà quận HBT.
+ 01 nhà tại số 12 lô C2 phố NHT - phường XL - quận TH là nhà 3 tầng, diện tích = 281m2. Năm 2003, chị Kh đã mua nhà này. Khi đó giá gốc là 261.000 đô là Mỹ (USD). Nhưng phải mua với giá 350.000 USD. Giấy tờ mua bán nhà đứng tên ông Nguyễn Văn T (bố đẻ chị Kh). Nguồn gốc tiền là của vợ chồng anh. Vợ chồng anh gửi tiền qua dịch vụ. Nhưng anh không có căn cứ để chứng minh. Hiện ngôi nhà này gia đình ông T đang quản lý.
+ Chị Kh có đóng góp cổ phần tại Công ty dệt len xuất khẩu tại km 18 - TS là 1,2 tỷ đồng. Giấy tờ đứng tên chị Kh. Hiện chị Kh đang quản lý.
- Số tài sản tại Ba Lan:
+ 1 nhà tại Ba Lan, diện tích = 60m2 tại phố T - W - P. Ngôi nhà này mua, cải tạo sửa chữa và mua nội thất hết 80.000 USD. Hợp đồng mua bán đứng tên chị Kh. Hiện chị Kh đang quản lý.
+ 1 ô tô 4 chỗ Poro của Pháp - Không rõ biển số, mua khoảng 20.000 USD. Giấy tờ mua bán đứng tên chị Kh, hiện chị Kh đang quản lý.
+ Tivi, tủ lạnh, bếp ga… và vốn làm ăn tại Ba Lan khoảng 3 tỷ đồng Việt Nam. Hiện chị Kh đang quản lý.
- Về tài sản chung của vợ chồng cho vay:
Năm 2002, chị Kh có cho bà Đ (mẹ đẻ chị Kh) vay 150.000.000 đồng Việt Nam. Việc bà Đ đã trả cho chị Kh hay chưa anh Q không biết vì anh Q chưa được cầm đồng nào. Theo anh Q đây là tài sản chung của vợ chồng. Ly hôn anh đề nghị Toà giải quyết theo pháp luật.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - bà Phan Kim Đ (mẹ của chị Kh) và ông Nguyễn Văn T (bố chị Kh, do bà Phan Kim Đ) trình bày:
Tài sản chung của vợ chồng chị Kh và anh Q chỉ có 1 nhà tại 1A - NC, phường ĐM, quận HBT, thành phố H. Nguồn gốc nhà này là của Xí nghiệp quản lý nhà quận HBT phân cho chồng bà, nhưng hiện nay hợp đồng thuê nhà đứng tên anh Q và chị Kh, diện tích = 12m2 nhà cấp 4 công trình phụ dùng chung. Quá trình ở năm 2000 vợ chồng phá nhà cũ xây lại thành nhà 2 tầng như hiện tại.
Ngoài ra, năm 2002 bà Đ có vay của chị Kh 150.000.000 đồng để sửa lại nhà của bà tại số 246 - BT. Năm 2003, bà Đ đã trả lại cho chị Kh 120.000.000 đồng hiện còn nợ 30.000.000 đồng. Số tiền này để mẹ con bà tự giải quyết, bà Đ không yêu cầu Toà giải quyết. Nay nếu anh Q, chị Kh ly hôn đề nghị Toà giải quyết theo pháp luật.
Nhà đất tại số 12 lô C2 phường XL, quận TH, thành phố H là tiền của vợ chồng bà Đ, ông T bỏ ra mua với giá 261.360 USD. Hợp đồng mua bán nhà đứng tên ông Nguyễn Văn T. Nay nhà đất trên là thuộc quyền sở hữu của vợ chồng bà Đ. Chứ không phải là thuộc quyền sở hữu của anh Q, chị Kh. Nay anh Q đòi chia vợ chồng bà Đ không nhất trí.
Công ty quản lý và phát triển nhà H do ông Lê Văn C - Phó Giám đốc uỷ quyền cho Xí nghiệp quản lý và phát triển nhà số 4 đại diện trình bày:
Nhà 1A - NC là nhà của Nhà nước quản lý. Ông Nguyễn Đức Q và bà Nguyễn Mai Kh đứng tên chủ hợp đồng thuê nhà số 140/ĐM-HĐNC ngày 05/9/1998; diện tích ở = 12m2 tầng 1. Diện tích phụ dùng chung. Hiện gia đình ông Q đã cải tạo thêm 2 tầng mái bằng, diện tích 12,92m2. Tháng 02/2007, ông Q đã làm thủ tục mua nhà theo Nghị định số 61-CP. Công ty đang giải quyết theo quy định. Hiện tại chưa có thông báo chấm dứt hợp đồng thuê nhà và Công ty xin được giải quyết vắng mặt.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Trong quá trình giải quyết phần tài sản mà chị Kh và anh Q thống nhất bao gồm:
- Về nhà tại 1A - NC, phường ĐM, quận HBT, thành phố H là nhà của Công ty quản lý và phát triển nhà thành phố H ký hợp đồng thuê nhà với anh Nguyễn Đức Q và chị Nguyễn Mai Kh số 140/ĐM-HĐNC ngày 05/9/1998. Diện tích thuê 1 buồng tầng 1 là 12m2. Công trình phụ sử dụng chung. Trong quá trình ở năm 2000, vợ chồng anh Q, chị Kh đã cải tạo lại thành nhà 2 tầng đổ trần và công trình phụ 1 tầng đổ trần như hiện tại. Tiền xây dựng là do vợ chồng anh chị bỏ ra.
Toà đã có thông báo giao nộp chứng cứ số 197 ngày 01/3/2007 yêu cầu anh Nguyễn Đức Q cung cấp các tài liệu chứng cứ liên quan đến phần tài sản có tranh chấp ở Ba Lan. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, chị Kh trình bày vợ chồng chị Kh và anh Q không có số tài sản như anh Q đã trình bày ở trên. Anh Q cho rằng, anh không có chứng cứ nào để xuất trình cho Toà vì toàn bộ các giấy tờ và tài sản trên hiện chị Kh đang quản lý.
Ngày 20/6/2010, Toà án thành phố H đã có Công văn số 632 uỷ thác tư pháp gửi Bộ Tư pháp và Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan đề nghị lấy lời khai của chị Kh có liên quan đến phần tài sản mà anh Q nêu ra, nhưng vẫn không có kết quả trả lời.
Hợp đồng mua bán nhà số 12 lô C2 phường XL, quận TH giữa bên bán là Công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển khu đô thị NTL với bên mua là ông Nguyễn Văn T với giá 261.360 USD.
Bình luận:
* Về căn cứ ly hôn:
Chị Nguyễn Mai Kh và anh Nguyễn Đức Q xây dựng gia đình với nhau do tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND quận HK ngày 06/12/1996. Trong quá trình chung sống đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do bất đồng quan điểm sống. Năm 2001, vợ chồng anh chị cùng sang Ba Lan làm ăn sinh sống. Nhưng mâu thuẫn của vợ chồng không hề cải thiện được nên đến năm 2003, anh Q trở về Việt Nam sinh sống. Vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay trong một thời gian dài. Mặc dù anh Q không đồng ý ly hôn vì chưa thoả thuận xong về tài sản. Toà án cũng đã để một thời gian để vợ chồng có điều kiện suy nghĩ nhưng vẫn không có kết quả. Như vậy, có cơ sở để khẳng định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân giữa anh Q và chị Kh đã không đạt được. Mặt khác, do điều kiện của chị Kh và anh Q xa cách, sống ly thân đã nhiều năm nên khả năng đoàn tụ của 2 người là khó. Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị Kh và anh Q đã trầm trọng, khả năng đoàn tụ là không còn, chị Kh kiên quyết xin ly hôn vì vậy chấp nhận yêu cầu của chị Kh là phù hợp với khoản 1 Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và hướng dẫn tại Mục 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
* Về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung:
Chị Kh và anh Q có 1 con chung là cháu Nguyễn Hồng K (trai) sinh ngày 18/7/1997, nay ly hôn chị Kh có nguyện vọng nuôi cháu K, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng. Mặt khác, hiện cháu K cũng đang ở Ba Lan cùng chị Kh và có đơn xin ở với chị Kh vì vậy giao cho chị Kh nuôi dưỡng cháu K đến khi đủ 18 tuổi là đảm bảo quyền lợi mọi mặt của cháu theo quy định tại Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
* Về tài sản chung:
- Phần tài sản mà chị Kh và anh Q thống nhất bao gồm:
+ Tài sản là nhà tại 1A - NC, phường ĐM, quận HBT, thành phố H là nhà của Công ty quản lý và phát triển nhà thành phố H ký hợp đồng thuê nhà với anh Nguyễn Đức Q và chị Nguyễn Mai Kh số 140/ĐM-HĐNC ngày 05/9/1998. Diện tích thuê 1 buồng tầng 1 là 12m2. Công trình phụ sử dụng chung. Trong quá trình ở năm 2000, vợ chồng anh Q, chị K đã cải tạo lại thành nhà 2 tầng đổ trần và công trình phụ 1 tầng đổ trần như hiện tại. Tiền xây dựng là do vợ chồng anh chị bỏ ra.
Chị Kh đề nghị Toà giải quyết theo pháp luật. Anh Q yêu cầu chia cho anh được hưởng toàn bộ giá trị xây dựng và giá trị quyền thuê nhà của nhà 1A - NC theo hợp đồng thuê nhà số 140/ĐM/HĐNC ngày 05/9/1998 của Xí nghiệp quản lý nhà quận HBT.
Xét thấy, nhà 1A - NC, phường ĐM, quận HBT, thành phố H là nhà thuê của Nhà nước. Hợp đồng thuê nhà số 140/ĐM-HĐNC ngày 05/9/1998 đứng tên anh Nguyễn Đức Q và chị Nguyễn Mai Kh. Trong quá trình ở, anh Q và chị Kh đã bỏ tiền ra cải tạo xây dựng lại trên diện tích thuê của Nhà nước. Bản thân cháu K còn nhỏ, không có công sức đóng góp gì vào ngôi nhà này, hơn nữa trong hợp đồng thuê nhà không có tên cháu Nguyễn Hồng K. Do đó, công sức của anh Q và chị Kh tại nhà 1A - NC là ngang nhau. Vì vậy, chia đôi mỗi người được hưởng 1/2 là hợp lý. Hiện tại chị Kh đang sống tại Ba Lan và cháu K cũng không sống tại nhà 1A - NC mà đã nhập hộ khẩu với ông bà ngoại tại số 246 - BT. Hiện tại cháu K đang ở với mẹ tại Ba Lan và cháu không có công sức đóng góp gì vào ngôi nhà này. Như vậy là nhu cầu về nhà ở của chị Kh và cháu K là không có. Vì vậy, chia cho anh Q được hưởng toàn bộ giá trị xây dựng và giá trị quyền thuê nhà của nhà 1A - NC theo hợp đồng thuê nhà số 140/ĐM-HĐNC ngày 05/9/1998 của Xí nghiệp quản lý nhà quận HBT nhưng anh Q phải có trách nhiệm thanh toán lại 1/2 tiền chênh lệch về tài sản cho chị Kh là phù hợp với Điều 95 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 và Điều 28 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Theo biên bản xem xét và định giá nhà ngày 17/7/2010 của Toà án thành phố H thì nhà 1A - NC, phường ĐM, quận HBT, thành phố H là nhà 2 tầng mái bằng và công trình phụ xây riêng biệt 1 tầng mái bằng.
Có giá trị xây dựng là: 62.007.290 đồng.
Giá trị sử dụng đất 17,6m + 2 ở + 8,53m2 phụ = 26,13m2 x 12.000.000 đồng/m2 = 313.560.000 đồng.
Tổng cộng: 375.567.290 đồng.
Mặc dù, trong quyết định có ghi công trình phụ sử dụng chung. Nhưng trong quá trình ở, vợ chồng anh Q, chị K có mua thêm 8,53m2 đất và xây công trình phụ từ năm 1999. Từ đó đến nay không có ai tranh chấp. Do vậy, phải xác định là tài sản thuộc quyền sở hữu và sử dụng của vợ chồng anh Q và chị Kh. Vậy anh Q, chị Kh mỗi người được hưởng là: 375.567.290 đồng : 2 = 187.783.645 đồng.
Như đã nhận định ở trên giao cho anh Nguyễn Đức Q được tiếp tục quản lý và sử dụng toàn bộ nhà đất tại 1A - NC, phường ĐM, quận HBT, thành phố H có tổng trị giá là: 375.567.290 đồng. Nhưng phải có trách nhiệm thanh toán lại tiền chênh lệch về tài sản cho chị Kh số tiền là: 187.783.645 đồng. Anh Q phải chấp hành các quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật.
Điều 28 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
Giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn đối với nhà ở thuê của Nhà nước
Việc giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn đối với nhà ở do vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng được thuê của Nhà nước trước hoặc sau khi kết hôn, được thực hiện theo quy định sau đây:
1. Trong trường hợp hợp đồng thuê nhà ở vẫn còn thời hạn, thì các bên thoả thuận về việc tiếp tục thuê nhà ở đó; nếu các bên không thoả thuận được và cả hai bên đều có nhu cầu sử dụng, thì được Toà án giải quyết theo quy định tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Trong trường hợp vợ chồng đã nâng cấp, sửa chữa, cải tạo nhà thuê của Nhà nước hoặc xây dựng mới trên diện tích có nhà thuê của Nhà nước, thì khi ly hôn, việc chia quyền sử dụng nhà ở và phần diện tích nâng cấp, sửa chữa, cải tạo, xây dựng mới do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì được Toà án giải quyết theo quy định tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình. Nếu chỉ một bên có nhu cầu sử dụng, thì bên sử dụng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền thuê nhà của Nhà nước và một phần giá trị nhà đã nâng cấp, cải tạo, sửa chữa, xây dựng mới mà bên đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ chồng đã được Nhà nước chuyển quyền sở hữu đối với nhà ở đó, thì việc chia nhà khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình.
+ Về số tiền bà Đ vay của anh Q, chị Kh:
Theo chị Kh và bà Đ vào cuối năm 2002, bà Đ có vay của chị Kh 150.000.000 đồng để sửa nhà 246 - BT. Chị Kh thừa nhận đây là số tiền của vợ chồng. Đầu năm 2003, bà đã trả được cho chị Kh 120.000.000 đồng. Hiện bà Đ chỉ còn nợ chị Kh 30.000.000 đồng. Khi bà Đ trả tiền cho chị Kh chỉ có 1 mình chị Kh, còn anh Q không biết. Nay số tiền 30.000.000 đồng để mẹ con chị tự giải quyết, bà Đ và chị Kh không yêu cầu Toà giải quyết.
Phía anh Q cũng khẳng định rằng, số tiền bà Đ vay là tài sản chung của vợ chồng. Nay bà Đ cho rằng đã trả cho chị Kh 120.000.000 đồng, còn nợ 30.000.000 đồng việc trả nợ hay chưa anh Q không được biết. Nay ly hôn đề nghị Toà giải quyết theo pháp luật.
Xét thấy khoản tiền trên có được là do công sức chung của vợ chồng và cả hai bên nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận là tài sản chung của vợ chồng. Việc bà Đ cho rằng, đã trả cho chị Kh 120.000.000 đồng. Nhưng phía anh Q không được quản lý số tiền này. Nay chị Kh là người quản lý, sử dụng số tiền này. Vì vậy, buộc chị Kh phải có trách nhiệm về số tiền bà Đ đã trả. Hơn nữa số tiền 30.000.000 đồng bà Đ có lời khai là để mẹ con bà tự giải quyết với nhau, không yêu cầu Toà giải quyết nhưng anh Q có yêu cầu Tòa xem xét số tiền bà Đ vay, vì vậy vẫn thuộc phạm vi xem xét, giải quyết của Tòa án. Nay vợ chồng anh Q, chị Kh ly hôn nên chia đôi mỗi người được hưởng một nửa là hợp tình hợp lý. Do vậy, cần buộc chị Kh phải thanh toán lại tiền chênh lệch về tài sản cho anh Q số tiền là 75.000.000 đồng. Đối trừ cho nhau, anh Q còn phải thanh toán lại tiền chênh lệch về tài sản cho chị Kh là 112.783.645 đồng.
- Phần tài sản các bên còn tranh chấp bao gồm:
Theo anh Q, vợ chồng anh chị còn có các tài sản
chung gồm:
+ Nhà 12 lô C2 phường XL - quận TH - thành phố H, tình trạng nhà 3 tầng, diện tích = 281m2 đất; năm 2003 chị Kh đã mua với giá 350.000 USD giấy tờ mua bán đứng tên ông Nguyễn Văn T (bố đẻ chị Kh). Đây là tiền chung của vợ chồng anh chị.
+ Tiền đóng góp cổ phần là 1,2 tỷ đồng tại km 18 TS - ở Công ty dệt len xuất khẩu - giấy tờ đứng tên chị Kh.
+ Một ngôi nhà tại Ba Lan - diện tích = 60m2 tại phố T - W - P. Tính tiền mua nhà và cải tạo sửa chữa là 80.000 USD. Hợp đồng mua bán nhà đứng tên chị Kh - hiện chị Kh đang quản lý.
+ 1 ôtô 4 chỗ hiệu Poro của Pháp. Không rõ biển số, mua giá 20.000 USD. Giấy tờ đứng tên chị Kh - hiện chị Kh đang quản lý.
+ Ngoài ra còn có ti vi, tủ lạnh, bếp ga và vốn làm ăn ở bên Ba Lan khoảng 3 tỷ đồng Việt Nam - hiện chị Kh đang quản lý.
Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, chị Kh trình bày vợ chồng chị Kh và anh Q không có số tài sản như anh Q đã trình bày ở trên.
Toà đã có thông báo giao nộp chứng cứ số 197 ngày 01/3/2010 yêu cầu anh Nguyễn Đức Q cung cấp các tài liệu chứng cứ liên quan đến phần tài sản có tranh chấp. Trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên toà, anh Q cho rằng anh không có chứng cứ nào để xuất trình cho Toà vì toàn bộ các giấy tờ và tài sản trên hiện chị Kh đang quản lý.
Còn phía người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T (bà Phan Kim Đ, xuất trình cho Toà hợp đồng mua bán nhà số 12 lô C2 phường XL, quận TH giữa bên bán là Công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển khu đô thị NTL với bên mua là ông Nguyễn Văn T với giá 261.360 USD.
Xét thấy, phía anh Q không xuất trình được chứng cứ cho rằng ngôi nhà trên là tài sản chung của vợ chồng. Còn phía ông T, bà Đ thì xuất trình được hợp đồng mua bán ngôi nhà số 12 lô C2 phường XL, quận TH, thành phố H đứng tên ông Nguyễn Văn T. Từ những nhận định trên có đủ cơ sở để xác định nhà đất tại số 12 lô C2 phường XL, quận TH không phải là tài sản chung của chị Nguyễn Mai Kh và anh Nguyễn Đức Q.
Ngày 20/6/2010, Toà án thành phố H đã có Công văn số 632 uỷ thác tư pháp gửi Bộ Tư pháp và Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan đề nghị lấy lời khai của chị Kh có liên quan đến phần tài sản mà anh Q nêu ra. Nhưng vẫn không có kết quả trả lời. Phía nguyên đơn chị Kh cho rằng, vợ chồng chị Kh và anh Q không có các loại tài sản mà anh Q tranh chấp ở trên. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà sơ thẩm anh Q cũng chưa có các tài liệu chứng cứ nào xuất trình cho Toà để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. Vì những căn cứ trên nên giành quyền khởi kiện bằng vụ kiện dân sự khác cho các đương sự nếu sau này các đương sự có chứng cứ và có đơn yêu cầu theo đúng quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên, vụ việc có thể được giải quyết như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Mai Kh. Chị Nguyễn Mai Kh được ly hôn với anh Nguyễn Đức Q.
2. Về con: Vợ chồng có 1 con chung là cháu Nguyễn Hồng K (nam) sinh ngày 18/7/1997. Giao chị Nguyễn Mai Kh trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Hồng K, tạm hoãn việc đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung của anh Q cho đến khi nào chị Kh yêu cầu hay có sự thay đổi khác.
Anh Q có quyền đi lại chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.
3. Về tài sản:
- Chia cho chị Nguyễn Mai Kh được sở hữu 150.000.000 đồng hiện chị đang quản lý. Nhưng chị Kh phải có trách nhiệm thanh toán lại tiền chênh lệch về tài sản cho anh Nguyễn Đức Q là 75.000.000 đồng.
- Về nhà ở: Anh Nguyễn Đức Q được tiếp tục quản lý và sử dụng nhà 1A - NC, phường ĐM, quận HBT, thành phố H theo hợp đồng thuê nhà số 140/ĐM-HĐNC ngày 05/9/1998 của Xí nghiệp quản lý nhà đất quận HBT, thành phố H và được sở hữu nguyên vật liệu của phần làm thêm có giá trị là 62.007.290 đồng và giá trị quyền thuê nhà của Nhà nước (giá trị quyền sử dụng đất) là 313.560.000 đồng. Tổng cộng là 375.567.290 đồng. Nhưng phải có trách nhiệm thanh toán lại tiền chênh lệch về tài sản cho chị Nguyễn Mai Kh số tiền là 187.783.645 đồng. Anh Q phải chấp hành các quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật.
Xác định nhà 12 lô C2 phường XL, quận TH, thành phố H không phải là tài sản chung của chị Nguyễn Mai Kh và anh Nguyễn Đức Q.
Giành quyền khởi kiện bằng một vụ kiện dân sự khác nếu sau này các đương sự có chứng cứ và có đơn yêu cầu theo đúng quy định của pháp luật.
Bù trừ cho nhau anh Q còn phải thanh toán lại tiền chênh lệch về tài sản cho chị Kh số tiền là 112.783.645 đồng.
Chúng tôi trên mạng xã hội