Người thừa kế kiện đòi nhà cho thuê
Thứ năm - 16/03/2017 21:23
Mở phiên toà ngày 20 và 23/6/2005 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xét xử công khai phúc thẩm vụ án dân sự : “Đòi nhà cho thuê”, giữa:
Nguyên đơn: Ông Lê Tấn Thành - Sinh năm 1960
Trú quán: 67/204 Bùi Đình Tuý, phường 12, quận Bình
Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: 1/Ông Nguyễn Văn Tiến - Sinh năm: 1953
2/Ông Nguyễn Văn Sang - Sinh năm: 1966.
3/Bà Nguyễn Thị Mai - Sinh năm: 1958
4/Bà Nguyễn Thị lIên - Sinh năm: 1967
Đều trú tại: 23/73 Nơ Trang Long, phường 7, quận Bình
Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Đều ủy quyền cho ông Huỳnh Tiến Hoàng - Sinh năm: 19 .....
Trú quán: 51/507Nguyễn Văn Nghi, phường 7, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/Nguyễn Thị Trắc - Sinh năm: 1926
Trú quán: ấp 3 xã Phú Hoà Đông, Châu Thành, Tiền Giang.
2/Lê Thị Kim Hoàng - Sinh năm: 1958
Trú quán: 67/204B Bùi Đình Tuý, phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố
Hồ Chí Minh.
3/Lê Tấn Phước - Sinh năm: 1966.
4/Lê Tấn Lộc - Sinh năm:1968.
5/TriệuThị Thượng - Sinh năm: 1935
Đều trú quán: 67/127 Bùi Đình Tuý, phường 12, quận Bình Thạnh, thành
phố Hồ Chí Minh.
6/Lê Tấn Lợi - Sinh năm: 1970
Trú quán: 67/204 Bùi Đình Tuý, phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố
Hồ Chí Minh.
7/Lê Thị Kim Kiều - Sinh năm: 1971.
8/Lê Thị Kim Định - Sinh năm: 1972
Đều trú quán: 67/17A Chu Văn an, phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố
Hồ Chí Minh.
9/Lê Thị Minh Thuỷ - Sinh năm: 19..
10/Lê Văn Sơn Hà - Sinh năm: 19....
11/Lê Văn Sơn Hải - Sinh năm: 19...
Đều trú quán: 217/1B Nơ Trang Long, phường 12, quận Bình Thạnh, thành
phố Hồ Chí Minh.
12/Lê Thanh Tâm - Sinh năm: 19....
Trú quán: 37/1 Lương Hữu Khánh, phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, thành
phố Hồ Chí Minh.
13/Lê Thị Thì - Sinh năm: 1951.
Trú quán: ấp 1 xã Quới Sơn, Châu Thành, Bến Tra.
14/Lê Thị Chí - Sinh năm: 1933
Trú quán: ấp Phú Ngãi, Phú An Hoà, Châu Thành, Bến Tre.
15/Lê Văn Tiến - Sinh năm: 1942
16/Lê Văn Thay - Sinh năm: 1956
Đều Trú quán: ấp Phước Hoà, xã Phú An Hoà, Châu Thành, Bến Tra.
- Luật sư Phan Trung Hiếu - Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn.
- Luật sư Nguyễn Văn Hùng - Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ quyền lợi cho bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nguyên đơn (ông Lê Tấn Thành) thì căn nhà 23/73 Nơ Trang Long, phường 7, quận Bình Thạnh thuộc sở hữu của bà Lê Thị Khuê. Từ thang11/1965 bà Khuê cho ông Nguyễn Văn Nở ở thuê. Tháng 9/2001 ông nở chết thì các con ông Nở là Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Lang, Nguyễn Thị Mai và Nguyễn thị Liên tiếp tục ở nhà này. Gia đình ông Nở trả tiền thuê nhà hàng tháng đến gần năm 2003 thì ngưng không trả nữa. Gia đình ông Thành cần nhà để ở nên đã nhiềulần yêu cầu lấy lại nhà nhưngcác con ông Nở không trả. Nên từ năm 2003 ông khởi kiện đề nghị Tòa án buộc các con ông nở (gồm ông Tiến, ông Sang, bà Mai và bà liên) là những người đang ở nhà đó phải trả lại nhà chông và các thừa kế của bà Khuê. Ông (Thành) tự nguyện thay mặt các thừa kế của bà kHuê thanh toán tiền ông Nở thế chân cho bà Khuê 30.000.000đồng, thanh toán tiền sửa chữa nhà 30.000.000đồng, hỗ trợ di chuyển 20.000.000đồng và hỗ trợ tiền thuê nhà 10.000.000đồng. Tổng cộng là 90.000.000đồng (Chín mươi triệu đồng).
Phía các bị đơn đều thừa nhận căn nhà 23/73 Nơ Trang Long, phường 7, quận Bình Thạnh là do ông Nở thuê của bà Lê Thị Khuê từ 1965. Hàng tháng ông Lê Văn Bo và khi ông Bo chết thì ông Lê tấn Thành là người đến nhà thu tiền thuê nhà, đến năm 2003 dô ông Lê tấn Thành kiện đòi nhà thì gia đình không trả tiền thuê nhà nữa và không chấp nhận yêu cầu kiện đòi nhàvì ông Thành không phải là chủ sở hữu hợp pháp căn nhà này.
Những người có quyền, nghĩa vụ liên quan bao gồm:
Bà Nguyễn Thị Trắc, Lê Thị Kim Hoàng, lê tấn Phước, Lê tấn Lọc, triệu Thị Thượng, Lê Tấn Lợi, lê Thị Kim Kiều, lê Thị Kim Định, Lê Thị Minh Thuỷ, Lê Văn Sơn Hà, lê Văn Sơn Hải, Lê Thanh Tâm, Lê Thị Chí, Lê Thị Chì, Lê Văn Tiền, Lê Văn thay. Đều ủy quyền cho ông Lê Thành đòi lại nhà 23/73 Nô Trang Long, phường 7, quận Bình Thạnh để ở và làm nơi thờ cúng chung.
Theo xác nhận của Phòng quản lý độ thị quận Bình Thạnh thì: “Căn nhà 23/73 Nơ Trang Long, phường 7, quận Bình Thạnh không thuộc diện nhà do nhà nước quản lý” (BL 125).
Theo bản kê khai ngày 15/12/1977 của ông Nguyễn Văn Nở thì chủ sở hữu nhà 23/73 Nơ Trang Long....tên “Khuê” (BL 13, 14, 15).
Theo biên bản định giá ngày 17/12/2004 thì toàn bộ chi phí ông Nở và các con sửa chữa nhà trong quá trình ở thuê trị giá 30.000.000đồng (Ba mươi triệu đồng) (BL 133).
Thei cung cấp của Sở Tài chính thành phố Hồ Chí Minh thì giá gạo tẻ trắng thường ờ thành phố Hồ Chí Minh thời điểm tháng 01/1965 là 8,21 đồng/kg) thời điểm tháng 1/2005 là 4.600đồng/tháng (BL 130).
Tại bản án số 13/DSST ngày 22/03/2005 Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh đã căn cứ Điều 25, 33, 35 Bộ luật tố tụng dân sự; nghị quyết 58/1998/NQ - UBTVQH10 ngày 24/8/1998 của UBTVQH về giao dịch dân sự về nhà ở xác lập trước ngày 01/7/1991; Căn cứ thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT ngày 25/1/1999 của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hạnh nghị quyết 58 nói trên; Căn cứ Nghị định 70/CP ngày 12/06/1997 của Chính Phủ quy định về án phí, lệ phí Toà án; Căn cứ thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tư Pháp, Bộ Tài Chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản.
Xử:
1/Chấp nhận yêu cầu đòi nhà cho thuê của ông Lê Tấn Thành.
2/Buộc ông Nguyễn văn Tiến, ông Nguyễn văn Lang, bà Nguyễn Thị Mai, bà Nguyễn Thị Liênphải giao trả căn nhà 23/73 Nơ Trang Lang, phường 7, quận Bình Thạnh cho các đồng thừa kế của bà Lê thị Khuê do ông lê tấn Thành đại diện vào ngày 01/7/2005.
- Ông Lê tấn Thành phải trả ông Tiến, ông Lang, bà Mai, bà liên 90.000.000đồng (chín mươi triệu đồng). Việc thanh toán tiền và trả nhà đồng thời tiến hành cùng lúc.
- Kể từ ngày ông Tiến, ông Sang, bà Mai, bà liên có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chưa thi hành hết số tiền trên thì hàng tháng ông Thành còn phải trả tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
3/An phí: ông Tiến, ông Sang, bà Mai, bà Liên phải nộp 50.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Thành phải nộp 4.500.000đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ 50.000đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai thu số 007807 ngày 19/10/2003 của Đội thi hành án Bình Thạnh.
Ngày 30/3/2005 ông Nguyễn Văn Tiến có đơn kháng cáo cho rằng chưa có căn cứ chứng minh ông Lê Tấn Thành có quan hệ huyết lộc với bà Lê Thị Khuê để ông thành được hưởng di sản thừa kế của bà Khuê. Vì thế mà ông không chấp nhận quyết định của bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà hôm nay. Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và nại thêm rằng chứa có căn cứ nói căn nhà đang tranh chấp là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Lê Thị Khuê.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, đơn kháng cáo và qua diễn biến tại phiên toà hôm nay. Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy: căn nhà 23/73 Nơ Trang Long, phường 7, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh tuy nhà nước chưa cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu chi ai nhưng Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh đã có công văn xác nhận “Nhà không thuộc diện nhà do nhà nước quản lý” (BL ) hơn nữa chính bản kê khai ngày 15/12/1977 của ông Nguyễn Văn Nở cũng xác nhận là nhà đất của bà Khuê (BL 13, 14, 15) điều này cũng phù hợp với “Giấy giao kèo mướn nhà” giữa bà Lê Thị Khuê với ông Nguyễn Văn Nở viết ngày 09/11/1965 (BL 16) đồng thời quá trình giải quyết vụ án, các bị đơn đều thừa nhận căn nhà này là của bà Lê Thị Khuê cho ông Nguyễn Văn Nở ở thuê từ năm 1965, hàng tháng gia đình ông Nở vẫn trả tiền thuê nhà cho bà Khuê, qua ông lê văn Bo và khi ông Lê Văn Bo chết thì trả cho ông Lê Tấn Thành. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định căn nhà này thuộc quyền sở hữu của bà Lê Thị Khuê là có căn cứ. Đúng pháp luật.
- Về quan hệ huyết tộc giữa bà Lê Thị Khuê và những người thừa kế. Theo xác nhận của Sơ tư pháp Bến Tra (BL ) thì các tài liệu, tàng thư về hộ tịch của địa phương từ 1975 trở về trước bị thất lạc, không lưu trữ được. Nên Toà chỉ có thể xác định quan hệ huyết tộc giữa bà Lê Thị Khuê với nhữ ng người được thừa kế của bà qua lời khai của nguyên đơn và những người có uqyền, nghĩa vụ liên quan, cũng như kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân xã Phú An Hoà, Ủy ban nhân dân xã Quới Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, khi mới xảy ra vụ kiện cũng như mới đây. Ngày 02/6/2005 Ủy ban nhân dân xã Phú An Hoà, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tra một lần nữa cam đoan và xác nhận ông Lê Văn Đạt sinh 1903, bà Lê Thị Dậu sinh 1908, bà Lê Thị Khuê sinh năm 1909 và ông Lê Văn Tám, sinh năm 1912 là anh chị em ruột, cùng mẹ cha là ông Lê Văn Thẳng và bà Nguyễn Thị Hiển. Điều này cũng phù hợp với giấy chứng nhận hộ khẩu thườngt rú của ông Lê Văn Bo (bố ruột Lê tấn Thành) do Công an quận Bình Thạnh lập ngày 20/11/1990. Theo chứng nhận hộ khẩu này thì ông Lê Văn Bo là chủ hộ, bà Lê Thị Khuê là cô, bà Khuê đăng ký nhận khẩu thường trú với hộ gia đình ông Bo từ ngày 06/4/1984 và ngày 24/11/1996 bà Khuê cũng chết tại nhà này. Do vậy có cơ sở khẳng định rằng bà Lê Thị Khuê là cô ruột của ông Lê Văn Bo và là bà của ông Lê tấn Thành. Ong Nguyễn Văn tiến kháng cáo về mối quan hệ huyết tộc này song ông và luật sư của ông cũng không đưa ra chứng cứ chứng minh nên kháng cáo không có cơ sở chấp nhận.
Xét bà Lê Thị Khuê chết năm 1996, không có di chúc, chồng bà là ông Nguyễn Văn Điểu cũng đã chết năm 1960. Vơ chồng không có con, bố mẹ bà kHuê là ông Lê văn Thẳng và bà Nguyễn Thị Hiển cũng đã chết từ lâu không rõ, các anh chị em ruột bà Khuê là ông Lê Văn Đạt, bà Lê Thị Dậu và ông Lê Văn Tám đều cũng đã chết nên con những người này là cháu bà khuê ở hàng thừa kế thứ ba gồm: bà Lê Thị Chí, bà Lê Thị Chì, ông Lê Văn Bo (chết 2001), bà Nguyễn Thị Trắn, ông Lê Văn Tiền, ông Lê Văn Thuy được quyền thừa kếdi sản của bà Khuê. Tấtcả những người này và những người con củaông Bo đều có hợp đồng ủy quyền cho ông Lê tấn Thành làm người đại diện khởi kiện đòi lại căn nhà bà Lê Thị Khuê cho ông Nguyễn Văn Nở thuê nay các con ông Nở đang ở là hoàn toàn chính đáng. Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc các bị đơn phải trả nhàcho nguyên đơn và chấp nhận sự tự nguyện của nguyên đơn thanh toán cho các bị đơn tiền thế chân đi thuê nhà 10.000đồng là 30.000.000đồng, tiền sửa chữa 30.000.000đồng, tiền hỗ trợ di chuyển chỗ ở 20.000.000đồng và tiền hỗ trợ thuê nhà 10.000.000đồng. Tổng cộng là 90.000.000đồng (chín mươi triệu đồng) là đúng. Nay không có đương sự nào kháng cáo về những vấn đề nên cần giữ nguyên.
Từ nhận định trên, căn cứ Điều 25, 33, 35 khoản 1 Điều 275 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 58/1998/NQ - UBTVQH10 ngày 24/8/1998 của UBTVQH về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991; Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT ngày 25/1/1999 của Tòa án nhân dân Tối cao - Viện kiểm sát nhân dân Tối cao hướng dẫn áp một số quy định tại nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991; điểm a, b khoản 1 Điều 7 Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Tòa án.; Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân Tối cao - Viện kiểm sát nhân dân Tối cao - Bộ Tư Pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản.
QUYẾT ĐỊNH
Xử giữ nguyên bản án số 13/DSST ngày 22/3/2005 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, cụ thể là:
- Chấp nhận yêu cầu kiện đòi nhà cho thuê của ông Lê tấn Thành (đại diện cho các thừa kế của bà Lê Thị Khuê).
- Buộc ông Nguyễn Văn Tiến, ông Nguyễn Văn Sang, bà Nguyễn Thị Mai, bà Nguyễn Thị Liên phải giao trả căn nhà số 23/73 Nơ Trang Long, phường 7, quận Bình Thạnh cho các đồng thừa kế của bà Lê Thị kHuê do ông Lê Tấn Thành đại diện, kể từ ngày 01/7/2005. Ông Lê Tấn Thành cùng các đồng thừa kế của bà Lê Thị Khuê được quyền căn cứ vào bản án này liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu căn nhà này.
- Chấp nhận sự tự nguyện của ông Lê Thấn Thành đại diện cho các thừa kế của bà Lê Thị Khuê, thanh toán tiền thế chân, tiền sửa chữa nhà, tiền hỗ trợ đi chuyển, tiền hỗ trợ thuê nhà ở khác cho các bị đơn là ông Tiến, ông Sang, bà Mai, bà Tuyết tổng số 90.000.000đồng (chín mươi triệu đồng).
Kể từ ngày ông Tiến, ông Sang, bà Mai, bà Liên có đơn đề nghị thi hành án mà ông Thành không thi hành hoặc thi hành không hết số tiền phải thi hành án thì hàng tháng phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn của Ngân hàng Nhà nước đối với số tiền còn phải thi hành cho đến khi thi hành xong.
Án phí: ông Tiến, ông Sang, bà Mai và bà Liên phải chịu 50.000đồng án phí dân sự sơ thẩm và 50.000đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được trừ 50.000đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu số 001932 ngày 30/3/2005 của Đội thi hành án quận Bình Thạnh.
Ông Lê Tấn Thành phải chịu 4.500.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ 50.000đồng tạm ứng theo biên lai thu số 007807 ngày 19/10/2003 của Đội thi hành án quận Bình Thạnh.
Bản án này là chung thẩm.
Chúng tôi trên mạng xã hội